Hy Lạp trong Ủy hội châu Âu

Hy Lạp không phải là một trong mười thành viên sáng lập của Ủy hội châu Âu, nhưng là quốc gia đầu tiên tham gia, ba tháng sau ngày tổ chức này được thành lập, vào ngày 9 tháng 8 năm 1949.[1] Năm 1953, Quốc hội Hy Lạp nhất trí phê chuẩn hiệp ước nhân quyền của Ủy hội châu Âu, Công ước Châu Âu về Nhân quyền và nghị định thư đầu tiên của tổ chức.[2] Hy Lạp đã đệ trình vụ kiện giữa các quốc gia đầu tiên trước Ủy ban Nhân quyền Châu Âu, Hy Lạp và Vương quốc Anh vào năm 1956, với cáo buộc vi phạm nhân quyền ở Síp thuộc Anh.[3]

Năm 1967, sau một cuộc đảo chính quân sự, chính quyền Hy Lạp đã bãi bỏ nền dân chủ, tự đưa mình vào xung đột với Ủy hội châu Âu.[2][3] Vào tháng 9 năm 1967, Đan Mạch, Na Uy, Thụy ĐiểnHà Lan đã đệ đơn liên bang lên Ủy ban liên quan đến việc vi phạm nhân quyền ở Hy Lạp. Các hội nghị viện của Ủy hội châu Âu cũng đã bầu ra một báo cáo viên, Max van der Stoel, để điều tra tình hình ở Hy Lạp. Vào ngày 12 tháng 12 năm 1969, sau khi báo cáo vụ việc Hy Lạp của ủy ban bị rò rỉ, Hy Lạp rời khỏi Ủy hội châu Âu trước khi vấn đề có thể được đưa ra bỏ phiếu. Sau khi chính quyền quân sự sụp đổ, Hy Lạp tái gia nhập Ủy hội châu Âu vào ngày 28 tháng 11 năm 1974.[4] Hy Lạp là quốc gia duy nhất rời khỏi Ủy hội châu Âu.[5]

Hiến pháp Hy Lạp cấm cải đạo, một lệnh cấm mà Tòa án Nhân quyền châu Âu đã ra phán quyết là không phù hợp với Điều 9 trong nhiều trường hợp có ảnh hưởng, bao gồm Larissis and others v. GreeceKokkinakis v. Greece. Trong cả hai trường hợp, Tòa án nhận thấy rằng, mặc dù việc cấm cải đạo có thể được bào chữa trong một số trường hợp nhất định nhưng nhìn chung thì lệnh cấm này đã vi phạm quyền tự do tôn giáo.[6][7][8]

Hy Lạp cũng tham gia các cơ quan của Ủy hội châu Âu, Ủy ban Châu Âu chống Phân biệt chủng tộc và Chủ nghĩa kỳ thị (ECRI), Ủy ban Phòng chống Tra tấn Châu Âu (CPT), và Nhóm các Quốc gia Chống Tham nhũng (GRECO).[9]

Năm 2020, Hy Lạp đảm nhận chức vụ Chủ tịch Ủy hội châu Âu từ tháng 5 đến tháng 11. Năm đó, chính phủ Hy Lạp đề cử Tòa án Nhân quyền Châu Âu cho Giải Nobel Hòa bình.[10]

Tham khảo

sửa
  1. ^ “1949: Greece joins”. Council of Europe.
  2. ^ a b Kiss, Alexandre Charles; Végléris, Phédon (1971). “L'affaire grecque devant le Conseil de l'Europe et la Commission européenne des Droits de l'homme” [The Greek case before the Council of Europe and the European Commission of Human Rights]. Annuaire Français de Droit International (bằng tiếng Pháp). 17 (1): 889–931. doi:10.3406/afdi.1971.1677.
  3. ^ a b Becket, James (1970). “The Greek Case Before the European Human Rights Commission”. Human Rights. 1 (1): 91–117. ISSN 0046-8185. JSTOR 27878926.
  4. ^ “The Greek Case at the Council of Europe (1967-1974)”. Greek Presidency of the Council of Europe. 2020. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 9 năm 2020.
  5. ^ Madsen, Mikael Rask (2019). “Resistance to the European Court of Human Rights: The Institutional and Sociological Consequences of Principled Resistance”. Principled Resistance to ECtHR Judgments - A New Paradigm? (bằng tiếng Anh). Springer. tr. 35–52. ISBN 978-3-662-58986-1.
  6. ^ Kyriazopoulos, Kyriakos N. (2004). “Proselytization in Greece: Criminal Offense vs. Religious Persuasion and Equality”. Journal of Law and Religion. 20 (1): 149–245. doi:10.2307/4144686. ISSN 0748-0814.
  7. ^ Martínez-Torrón, Javier; Navarro-Valls, Rafael (2004). “The Protection of Religious Freedom in the System of the Council of Europe”. Facilitating Freedom of Religion or Belief: A Deskbook (bằng tiếng Anh). Springer Netherlands. tr. 209–238. ISBN 978-94-017-5616-7.
  8. ^ Markoviti, Margarita (2017). “The 'filtering effects' of ECtHR case law on religious freedoms: legal recognition and places of worship for religious minorities in Greece”. Religion, State and Society. 45 (3–4): 268–283. doi:10.1080/09637494.2017.1390871.
  9. ^ “Greece and the Council of Europe”. Ελληνική Προεδρία του Συμβουλίου της Ευρώπης. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2020.
  10. ^ “Greek nomination of the European Court of Human Rights for the 2020 Nobel Peace Prize”. Ministry of Foreign Affairs. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2020.