Người Do Thái Ashkenazi

Người Do Thái Ashkenazi (/ˌæʃ-, ɑːʃkəˈnɑːzi/ ASH-, AHSH-kə-NAH-zee),[1] hay còn gọi là Ashkenazic Do Thái trong tiếng Hebrew số nhiều có hậu tố -im, Ashkenazim là một Cộng đồng người Do Thái thuần chủng sinh sống ở Đế chế La Mã Thần thánh vào khoảng cuối thiên niên kỷ thứ nhất.[2]

Ông lão người do thái Ashkenazi

Ngôn ngữ được sử dụng trong cộng đồng truyền thống của người Do Thái Ashkenazi là tiếng Yiddish (một ngôn ngữ Đức với pha trộn với nhiều yếu tố của ngôn ngữ Hebrew, AramaicSlavic),[2] được phát triển sau và nâng cấp lên một đẳng cấp khác sau khi họ chuyển đến Bắc Âu: rồi Đức và Pháp trong thời đại Trung Cổ. Trước đây họ đã từng sử dụng duy nhất là tiếng Do Thái với vai trò là một ngôn ngữ thần thánh, cho đến khi tiếng Do Thái hồi sinh thành một ngôn ngữ phổ biến ở Israel vào thế kỷ 20. Trong suốt thời gian ở châu Âu, dân do thái Ashkenazi đã có nhiều đóng góp quan trọng cho triết học, học thuật, văn học, nghệ thuật, âm nhạc và khoa học.[3][4][5][6]

Thuật ngữ "Ashkenazi" dùng để chỉ những người định cư Do Thái dọc theo sông Rhine Tây Đức và miền Bắc Pháp thời Trung cổ.[7] Khi tới nơi, họ cải biên các truyền thống phong tục tập quán từ Babylon, Thánh địa và Tây Địa Trung Hải sang môi trường mới.[8] Nghi thức tôn giáo Ashkenazi phát triển ở các thành phố như Mainz, WormsTroyes. Giáo sĩ Rishon nổi tiếng người Pháp Shlomo Itzhaki (Rashi) đã có nhiều ảnh hưởng đáng kể đến tôn giáo Do Thái.

Vào cuối thời Trung cổ, do các cuộc đàn áp tôn giáo dã man, phần lớn dân tộc Do Thái Ashkenazi chạy loạn về phía đông,[9] bay ra khỏi Đế chế La Mã Thần thánh rồi chuồn tới các khu vực thuộc Khối thịnh vượng chung Ba Lan-Litva, bao gồm Belarus ngày nay., Estonia, Latvia, Lithuania, Moldova, Ba Lan, Nga, SlovakiaUkraine.[10][11]

Vào cuối thế kỷ 18 và 19, những người Do Thái này dậm chân tại chỗ hoặc quay trở lại vùng lãnh thổ Đức, được thời vận thì họ đã tạo ra một sự cải cách tân trang văn hóa; và nâng tầm dân trí về trí tuệ khai sáng văn minh ở vùng trung tâm đô thị, họ dần dần quên tiếng mẹ đẻ Yiddish và sử dụng tiếng Đức thường xuyên, đồng thời phát triển lối sống tân tôn giáo và bản sắc văn hóa mới thuần phong mỹ tục đậm đà bản sắc dân tộc của người Do Thái.[9]

Nạn diệt chủng Do Thái trong Chiến tranh thế giới thứ Nhì đã thảm sát toàn bộ dân tộc Ashkenazi, làm thiệt hại mọi gia đình Do Thái.[12][13] Tiên nhân ước tính rằng vào thế kỷ 11 người Do Thái Ashkenazi chiếm ba phần trăm tổng dân số Do Thái trên thế giới, theo ước tính khác có 92 phần trăm người Do Thái trên thế giới là người do thái Ashkenazi.[14] Tiền vụ diệt chủng tộc do thái, số lượng người Do Thái trên thế giới là 16,7 triệu người do thái.[15] Các số liệu thống kê khác nhau đối với nhân khẩu học đương thời về người Do Thái Ashkenazi, dao động từ 10 triệu ~ 11,2 triệu. Sergio Della Pergola, theo tính toán sơ bộ về người Do Thái Sephardic và Mizrahi, báo cào rằng người Do Thái Ashkenazi chiếm 65–70% tổng dân số người Do Thái trên khắp toàn thế giới.[16] Các ước tính khác cho rằng người Do Thái Ashkenazi chiếm khoảng 75% người Do Thái toàn cầu.[17]

Nghiên cứu di truyền về người Do Thái Ashkenaz - điều tra về gien di truyền DNA của cả dòng tộc nội và má đã chỉ ra rằng chủng tộc Do Thái Ashkenazi có tổ tiên là sự kết hợp lai tạo giữa chủng tộc Levant và chủng tộc châu Âu (chủ yếu là Tây Âu / Nam Âu).[18][19][20][21]

Ngôn ngữ học

sửa

Danh từ Ashkenazi xuất phát từ vựng trong kinh thánh là Ashkenaz, nam tử đầu tiên của Gô-me, con trai của Japhet, con trai của Noah, và là một tộc trưởng dòng Japhetic trong Bản Phong Thần Dân Tộc (Genesis 10). Danh từ Gomer thường được cho là có máu mủ thuyết thống với các dân tộc thiểu số Cimmerian.

Ashkenaz trong Kinh thánh thường có nguồn gốc từ Aškūza Akūza của người Assyria (chữ hình nêm Aškuzai / Iškuzai), một dân tộc đã trục xuất người Cimmerian khỏi khu vực Armenia vùng Thượng lưu Euphrates,; [22] cái tên Aškūza thường gắn liền với tên của người Scythia.[23][24]

Trong Giê-rê-mi 51:27, Ashkenaz được xem là một trong tam vương quốc ở cực bắc, các vương quốc khác là Minni và Ararat, tương ứng với Urartu, được Thiên Chúa kêu gọi chống lại đế chế Babylon.[25][26] Trong sách Yoma Talmud vùng Babylon, tên Gomer được gọi là Germania, mà ở những nơi khác thì dựa theo các tài liệu môn phái Do Thái, họ đã được xác định liên quan tới Germanikia ở tây bắc Syria, sau đó liên kết với Germania. Ashkenaz có quan hệ máu mủ với Scandza / Scanzia, được xem như là ông tổ của các bộ lạc Germanic, sớm nhất là từ thế kỷ thứ 6.[27]

Vào khoảng thời gian sơ kỳ Trung cổ, người Do Thái ở Trung và Đông Âu được gọi bằng tên gọi này.[25] Tuân theo các phong tục tập quán địa phương nơi mà người Do Thái định cư thì họ sử dụng các danh từ trong Kinh thánh,

Tây Ban Nha được gọi là Sefarad (Obadiah 20), Pháp được gọi là Tsarefat (1 Các Vua 17: 9), và Bohemia được gọi là Đất của Canaan.[28] Vào thời kỳ trung cổ trung kỳ, các sư phụ Talmudic như sư phụ Rashi bắt đầu sử dụng danh từ Ashkenaz / Eretz Ashkenaz để chỉ nước Đức, trước đó được gọi là Loter,[27], cũng chính nơi đây là tiền đề cho các cộng đồng Rhineland vùng Speyer, WormsMainz, trờ thành lãnh thổ hùng mạnh nhất của người Do Thái phát triển thành các cộng đồng rực rỡ giàu sanh vinh hoa phú quý.[29] Rashi sử dụng leshon Ashkenaz (ngôn ngữ Ashkenazi) để mô tả giọng nói của người Đức, và các chữ cái của người Do Thái Byzantium và Syria gọi quân đội Thập tự chinh là Ashkenazim. Do mối liên hệ chặt chẽ khắn khít giữa các cộng đồng Do Thái Pháp và Đức sau khi Đế quốc Carolingian thống nhất, thuật ngữ Ashkenazi được dùng để chỉ những người Do Thái gốc Đức và gốc Pháp thời trung cổ.[30]

Lịch sử

sửa

Khu định cư người Do Thái châu Âu thời cổ đại

sửa

Các cộng đồng Do Thái xuất hiện ở miền nam châu Âu vào đầu thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, trên quần đảo Aegean, Hy Lạp và Ý. Người Do Thái di cư đến Nam Âu từ Trung Đông một cách tự nguyện vì người do thái muốn tìm kiếm cơ hội để giao thương và buôn bán làm giàu. Sau các cuộc chinh phạt của Alexander Đại đế, người Do Thái di cư đến các khu định cư Hy Lạp Đông Địa Trung Hải, vì họ muốn tìm nhiều cơ hội làm giàu. Sự di cư kinh tế của người Do Thái đến miền nam châu Âu đã xảy ra trong thời kỳ La Mã. Các khu định cư người Do Thái được xây dựng ở miền nam châu Âu trong thời kỳ La Mã, E. Mary Smallwood đã viết rằng "vô niên đại vô nguồn gốc thì cực kỳ khó để xác định được các khu vực định cư cuối vùng phía tây, và một số khu có thể được thành lập do sự phân tán rải rác của người Palestine Do thái sau các cuộc nổi dậy vào những năm 66–70 và 132–135 sau Công nguyên, phỏng đoán rằng, khu định cư ở Puteoli được chứng thực vào năm thứ tư trước Công nguyên, đã quay trở lại nền cộng hòa muộn hoặc đế chế sơ khai và bắt nguồn từ việc di cư tự nguyện và sự thu hút thương mại và kinh tế. " [31][32][33]

Vào năm 63 TCN, Cuộc vây hãm Jerusalem cho thấy Đế chế La Mã chinh phục Judea, và hàng ngàn tù nhân chiến tranh Do Thái được đưa đến Rome để làm nô lệ khổ sai. Sau khi giành được tự do, người do thái định cư lâu dài ở Rome đóng vai trò là những thương nhân chuyên nghiệp.[34] Đã có thêm một làn sóng nô lệ Do Thái bị quân La Mã mang đến miền nam châu Âu sau khi quân của Hêrôđê Đại đế đánh chiếm Jerusalem với sự hỗ trợ của quân La Mã vào năm 37 trước Công nguyên. Những người Do Thái bị bắt giữ trong chiến tranh đã được bán làm nô lệ sau các cuộc nổi dậy của người Do Thái nhỏ bị đàn áp vào năm 53 trước Công nguyên, và một số dân do thái có lẽ đã bị lưu đày đến miền nam châu Âu.[35]

Đế chế La Mã đã dập tắt hai cuộc nổi dậy quy mô khủng của người Do Thái vùng Judea, Chiến tranh Do Thái-La Mã lần thứ nhất, kéo dài từ năm 66 đến năm 73 CN, và cuộc nổi dậy Bar Kokhba, kéo dài từ 132 đến 135 CN. Cả hai cuộc nổi dậy này đều kết thúc trong sự tàn phá tiêu tàn vùng Judea. Thành phố thánh địa Jerusalem và Đền thờ Herod đã bị phá hủy sạch sẽ trong cuộc nổi dậy đầu tiên, và trong cuộc nổi dậy Bar-Kokhba, Jerusalem hoàn toàn bị san bằng và Hadrian xây dựng thuộc địa mới là Aelia Capitolina trên đống đổ nát dư tàn của chế độ cũ ấy, kể từ đó chính quyền đỉnh chỉ và hoàn toàn cấm cửa người Do Thái và Cơ đốc giáo (tại thời điểm này, Cơ đốc giáo vẫn là một phong trào giáo phái trong Do Thái giáo) bén mảng tới đây.

Trong cả hai cuộc nổi dậy này, nhiều người Do Thái đã bị người La Mã bắt cóc và bán làm nô lệ khổ sai. Theo các nhà sử học Do Thái Josephus, 97.000 người Do Thái bị bán làm nô lệ sau cuộc nổi dậy đầu tiên.[36] Những nô lệ Do Thái và con cái họ cuối cùng đã kiếm được sự tự do và được gia nhập vào các cộng đồng Do Thái tự do vùng địa phương.[37] Với khát vọng dân tộc của người do thái bị đè bẹp nghiền và tổ quốc Judea điêu tàn sụp đổ nát như cám, những người Do Thái vô cùng chán nản đã di cư ra khỏi vùng Judea sau hậu quả tàn khóc khủng khiếp của cả hai cuộc nổi dậy thất bại, và nhiều người do thái định cư ở miền nam châu Âu.[38]

Bên ngoài khu vực đất tổ Israel cổ đại, lịch sử của người do thái Ashkenazi vẫn còn là một ẩn số đại,[39] với nhiều giả thuyết để suy đoán về sự xuất hiện của dân tộc do thái Ashkenazi như là một cộng đồng người Do Thái cá biệt.[40][41] Nhiều người Do Thái đã bị từ chối quyền công dân La Mã cho đến khi Hoàng đế Caracalla ban cho tất cả các dân tộc quyền tự do vào năm 212. Người Do Thái được yêu cầu trả thuế khoán cho đến khi Hoàng đế Julian trị vì vào năm 363. Vào thời kỳ cuối của Đế chế La Mã, người Do Thái được tự do hình thành các mạng lưới quan hệ văn hóa và tôn giáo và tham gia vào các ngành nghề địa phương khác nhau. Nhưng sau khi Cơ đốc giáo trở thành tôn giáo chính thức của RomeConstantinople vào năm 380, người Do Thái ngày càng bị ra rìa khỏi xã hội.

Lịch sử của người Do Thái Hy Lạp sớm nhất đến từ thời đại Hy Lạp cổ phong khi nền văn hóa cổ điển Hy Lạp đang trải qua một quá trình chính thức hóa sau Thời kỳ Đen tối Hy Lạp. Nhà sử học Hy Lạp Herodotus biết rõ về người Do Thái, người mà ông gọi là người Syria Palestine,[42] và liệt kê họ thuộc các lực lượng hải quân đánh thuể để xâm lược Ba Tư. Trong khi chủ nghĩa độc tôn của người Do Thái không bị ảnh hưởng sâu sắc bởi thuyết đa thần của người Hy Lạp, cách sống của người Hy Lạp lại khá là hấp dẫn đối với nhiều người Do Thái đại gia giàu có sang giàu.[43] Giáo đường Do Thái ở Agora tại Athens có niên đại từ năm 267 đến năm 396 CN. Giáo đường Do Thái Stobi ở Macedonia được xây dựng trên tàn tích của một giáo đường Do Thái cổ hơn vào thế kỷ thứ 4, vào thế kỷ thứ 5, giáo đường Do Thái được biến hoá thành một nhà thờ Thiên chúa giáo.[44] Do Thái giáo Hy Lạp hóa phát triển mạnh ở AntiochAlexandria, và nhiều người trong số những người Do Thái nói tiếng Hy Lạp sau này cải đạo sang Cơ đốc giáo.[45]

Định nghĩa

sửa

Theo tôn giáo

sửa
 
Đàn ông người do thái Ashkenazi theo giáo phái Hasidic trên đường phố Borough Park Huyện Brooklyn Nữu Ước Hoa Kỳ

Người Do Thái tôn giáo có nhiều phong tục tập quán và luật tôn giáo, với nhiều cách giải thích khác nhau về luật. Các nhóm người Do Thái tôn giáo khác nhau ở các khu vực địa lý khác nhau trong lịch sử đã áp dụng các phong tục tập quán và các cách giải thích giáo lý khác nhau. Người Do Thái Chính thống bắt buộc phải tuân theo phong tục tổ tiên họ và không tin rằng họ có quyền lựa chọn tự do cá nhân. Vì lý do này, những người Do Thái theo đạo đôi khi thấy rằng vì lý do tôn giáo, điều quan trọng là người do thái phải biết rõ nguồn gốc tổ tiên tôn giáo của dòng tộc họ là ai, để biết gia đình họ phải tuân theo lề luật truyền thống thuộc phong tục nào. Ví dụ, khi hai người Do Thái có nguồn gốc dân tộc khác nhau, hai người này muốn kết hôn, nhưng trong trường hợp một người không phải là người Do Thái chuyển sang đạo Do Thái và thì họ phải xác định phong tục nào sẽ tuân theo lần đầu tiên, hoặc khi một người Do Thái không quan tâm hoặc ít tuân thủ, khi quay trở lại đạo Do Thái truyền thống và thì cá nhân đó phải tìm hiểu quá khứ lịch sử ông cố bà cố để biết là phải theo phong tục tập quán nào. Theo nghĩa này, bản sắc "Ashkenazic" đề cập đến cả tổ tiên của cả gia tộc và phải tuân theo một tập quán ràng buộc đối với những người Do Thái có tổ tiên đó. Do Thái giáo nhánh cải cách, không nhất thiết phải tuân theo những lề luật khắt khe đó, mặc dù họ cũng bắt nguồn từ những người Do Thái Ashkenazi.[46]

Theo nghĩa tôn giáo, người Do Thái Ashkenazi là bất kỳ người Do Thái nào có truyền thống gia đình và nghi lễ tuân theo phong tục tập quán Ashkenazi. Cộng đồng Do Thái Ashkenazi lần đầu tiên bắt đầu phát triển rực rở vào Đầu thời Trung cổ, các trung tâm quyền lực chính trị tôn giáo Do Thái nằm trong lòng thế giới Hồi giáo, tại Baghdad và ở Tây Ban Nha Hồi giáo. Ashkenaz (Đức) xa xôi về mặt địa lý đến mức cộng đồng Do Thái này đã phát triển lệnh minhag riêng biệt. phong tục theo một bản sắc riêng biệt độc lạ. Tiếng Do Thái Ashkenazi được phát âm theo khác biệt so với các thổ âm khác của tiếng Do Thái.[47]

Về mặt này, đối thủ của người do thái Ashkenazi là người do thái Sephardic, vì hầu hết những người Do Thái Chính thống phi Ashkenazi đều theo phong tục môn phái Sephardic, cho dù họ có thuộc chủng tộc Sephardic hay không. Theo truyền thống, một phụ nữ Sephardic hoặc Mizrahi kết hôn với một gia đình Do Thái Chính thống hoặc Haredi Ashkenazi, thì bà mẹ phải nuôi dạy con cái của mình trở thành người Do Thái Ashkenazi; ngược lại, một phụ nữ Ashkenazi kết hôn với một người đàn ông Sephardi hoặc Mizrahi thì phải theo nhà chồng nuội nứng con theo phong tục Sephardic, mặc dù thực tế thì, nhiều cặp vợ chồng phải thoả hiệp. Với sự hội nhập của những người Do Thái từ khắp nơi trên thế giới ở Israel, Bắc Mỹ và những nơi khác, định nghĩa tôn giáo về người Do Thái Ashkenazi đang mờ nhạt, đặc biệt là bên ngoài Do Thái giáo Chính thống.[48]

Ở các thành phố Bắc Mỹ, các xu hướng xã hội như phong trào chavurah, và sự nổi lên của "đạo Do Thái hậu giáo phái" [49][50] thường quy tụ những người Do Thái trẻ tuổi có nguồn gốc chủng tộc đa dạng. Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều bạn trẻ do thái quan tâm đến Kabbalah, một môn phái bí thuật được nhiều người Do Thái Ashkenazi nghiên cứu bên ngoài khuôn khổ chính tạo được dạy trong chủng viện do thái Yeshiva. Một xu hướng khác là sự phổ biến mới của lòng sùng bái cực lạc trong phong trào Duy tân của người Do Thái và phong thái minyan theo phong cách Carlebach, cả hai đều có nguồn gốc từ người do thái Ashkenazi trên danh nghĩa.[51]

Theo văn hóa

sửa

Về mặt văn hóa dân tộc, một người Do Thái Ashkenazi được xác định thông qua khái niệm Yiddishkeit, có nghĩa là bản sắc dân tộc Do Thái trong ngôn ngữ Yiddish.[52] Yiddishkeit được coi là cái chất Do Thái và là bản sắc dân tộc của người Do Thái Ashkenazi.[53] Từ Rhineland đến Riga đến Romania, hầu hết người Do Thái cầu nguyện bằng tiếng Do Thái Ashkenazi trong các lễ cúng bái và nói chuyện bằng tiếng Yiddish trong cuộc sống thế tục thường ngày.

Theo dân tộc

sửa

Theo nghĩa dân tộc, người Do Thái Ashkenazi là người có tổ tiên bắt nguồn từ những người Do Thái Trung Âu. Trong khoảng một nghìn năm, người Do thái Ashkenazi là một nhóm dân cư biệt lập ở châu Âu, mặc dù sống ở nhiều quốc gia khác nhau, họ có rất ít sự đa dạng hoá về mặt di truyền DNA, hiếm khi cải đạo hoặc kết hôn với các dân tộc khác, thậm chí còn không thèm kết hôn những người Do Thái khác chủng tộc.[54] Kể từ giữa thế kỷ 20, nhiều người Do Thái Ashkenazi đã kết hôn với các thành viên của các cộng đồng Do Thái khác tộc và với những người thuộc các dân tộc khác và tín ngưỡng khác biệt.[55]

Một nghiên cứu năm 2006 cho thấy người Do Thái Ashkenazi là dân tộc có gien di truyền rõ ràng, đồng nhất, thuần chủng nhứt. Bất kể nguồn gốc xuất xứ, người Do Thái Ashkenazi đều chung một nguồn gốc thuần khiết - nghĩa là, bất kể tổ tiên của người Do Thái Ashkenazi đến từ Ba Lan, Nga, Hungary, Lithuania, hoặc bất kỳ nơi nào khác mà đã từng có người Do Thái ăn nhờ ở đậu qua lịch sử, thì người do thái Ashkenazi đều thuộc chung cùng một nhóm dân tộc thuần khiết. Nghiên cứu chứng minh sự quan tâm của cộng đồng người Do Thái ở châu Âu và tạo thêm uy tín cho tư tưởng là người Do Thái Ashkenazi là một nhóm dân tộc thuần chủng. Mặc dù việc kết hôn lai chủng tộc giữa những người Do Thái gốc Ashkenazi ngày càng trở nên phổ biến, nhiều người Do Thái Haredi, đặc biệt là các thành viên của giáo phái Hasidic hoặc Hareidi, vẫn tiếp tục kết hôn duy nhất với những người Do Thái Ashkenazi thuần gốc. Sự kỳ thị này bảo tồn các gen Ashkenazi thuần được phổ biến và cũng giúp các nhà khoa học nghiên cứu gien di truyền DNA tìm hiểu kỷ hơn về gen của người Do Thái Ashkenazi một cách tương đối dễ dàng thuận tiện. Những người Do Thái Haredi này thường có gia đình cực lớn con đàng cháu đống.[56]

Phong tục, luật lệ và truyền thống

sửa

Các phong tục cúng bái thực hành trong môn phái Do Thái giáo của người Do Thái Ashkenazi (Chính thống) có thể khác với những người Do Thái Sephardi, đặc biệt là trong các vấn đề về phong tục tập quán.

 
Cộng đồng người do thái Ashkenazi chính thống giáo
  • Ăn mừng Lễ Vượt Qua: Người Do Thái Ashkenazi theo truyền thống thì không ăn các loại đậu, ngũ cốc, hạt kêgạo (tuy nhiên, hạt quinoa đã được chấp nhận là thực phẩm trong các cộng đồng Bắc Mỹ), ngược lại người Do Thái Sephardi thường không cấm những loại thực phẩm này.
  • Người Do Thái Ashkenazi tự do trộn và ăn cá và các sản phẩm từ sữa; một số người Do Thái Sephardic từ chối làm chuyện ấy.
  • Dân Do Thái Ashkenazi dễ dãi hơn đối với việc sử dụng tóc giả làm vật che phủ tóc cho phụ nữ đã kết hôn và góa chồng.
  • Trong trường hợp kashrut để lấy thịt, ngược lại, người Do Thái Sephardi có yêu cầu khắt khe hơn - cấp độ này thường được gọi là Beth Yosef. Do đó, các sản phẩm thịt được người Do Thái Ashkenazi chấp nhận là kosher có thể bị người Do Thái Sephardi từ chối. Bất chấp những yêu cầu khắt khe hơn đối với việc giết mổ. Thực tế, người Do Thái Sephardi vẫn cho phép mổ các phần sau của động vật sau khi cắt bỏ dây thần kinh hông đúng cách Halakhic, trong khi nhiều người Do Thái Ashkenazi thì không. Điều này không phải do các cách giải thích luật khác nhau; thay vào đó, các lò mổ không tìm được nhân viên có kỹ năng thích hợp để cắt bỏ dây thần kinh tọa một cách chính xác và việc tách phần thân sau và bán chúng dưới dạng thịt không phải thịt kosher sẽ tiết kiệm hơn.
  • Người Do Thái Ashkenazi thường đặt tên những đứa trẻ mới sinh theo tên các thành viên trong gia đình đã qua đời, nhưng không đặt theo tên những người thân còn sống.
  • Ngược lại, người Do Thái Sephardi thường đặt tên con cháu theo tên ông bà của đứa trẻ, ngay cả khi những ông bà đó vẫn còn sống.
  • Ashkenazi tefillin có một số đặc điểm khác biệt so với Sephardic tefillin.
  • Cách phát âm tiếng Do Thái truyền thống của dân Ashkenazic khác với cách phát âm của các nhóm do thái khác. Sự khác biệt nổi bật nhất về phụ âm so với phương ngữ tiếng Do Thái Sephardic và Mizrahic là cách phát âm của chữ cái Hebrew tav trong một số từ tiếng Do Thái nhất định (về mặt lịch sử, trong ngữ cảnh không tách rời hậu kỳ) là một / s / chứ không phải âm / t / hoặc / θ /.
  • Các khăn choàng cầu nguyện, hoặc tallit (hoặc Tallis trong Ashkenazi Hebrew), được mặc bởi đa số đàn ông Ashkenazi sau khi kết hôn, nhưng người do thái Ashkenazi Tây Âu nam giới mặc khăn từ Bar Mitzvah. Trong đạo Do Thái Sephardi hoặc Mizrahi, khăn choàng cầu nguyện thường được đeo từ thời thơ ấu.[57]

Phụng vụ cúng bái Ashkenazic

sửa

Thuật ngữ Ashkenazi cũng đề cập đến nusach Ashkenaz (tiếng Do Thái, "truyền thống phụng vụ", hoặc nghi thức) được người Do Thái Ashkenazi sử dụng trong Siddur (sách cầu nguyện) của họ. Nusach được định nghĩa bởi sự lựa chọn các lời cầu nguyện của truyền thống phụng vụ, thứ tự các lời cầu nguyện, văn bản của lời cầu nguyện và giai điệu được sử dụng trong việc ca hát cầu nguyện. Hai hình thức nusach chính khác của những người Do Thái Ashkenazic là Nusach Sefard (không nên nhầm lẫn với nghi lễ Sephardic), là nusach Hasidic Ba Lan nói chung, và Nusach Ari, được sử dụng bởi Lubavitch Hasidim.

Tên họ của người do thái Ashkenazi

sửa

Một số người nổi tiếng có tên họ Ashkenazi, chẳng hạn như Vladimir Ashkenazy. Tuy nhiên, hầu hết những người có họ này đều đến từ trong các cộng đồng Sephardic, đặc biệt là từ cộng đồng người Do Thái Syria. Những người mang họ Sephardic sẽ có một số tổ tiên dân Ashkenazi vì họ này được các gia đình ban đầu có nguồn gốc Ashkenazic chấp nhận, những người đã chuyển đến các nước Sephardi và gia nhập các cộng đồng đó.

Mối quan hệ với người do thái Sephardi

sửa

Mối quan hệ giữa hai bộ tộc do thái Ashkenazi và Sephardi đôi khi không được mặn mà cho lắm chính vì rào cản lớn là thái độ chảnh trẹ và tính kiêu ngạo, khuôn mặt hợm hĩnh, sang chảng quý sờ tộc và những yêu sách về ưu thế chủng tộc với nhiều định kiến kỳ thị phân biệt chủng tộc giữa người do thái vì cả hai phe đều chê bai hơn thua và hay so sánh xét nét sự kém cỏi của bên kia, dựa trên những đặc điểm khác nhau như ngoại hình, sắc đẹp, thẩm mỹ, âm nhạc, cảm thụ và văn hóa.[58][59][60][61][62]

Người Do Thái Sephardi và người do thái Berber ở Bắc Phi thường bị người do thái Ashkenazi coi thường và được coi là những công dân hạng hai.[63][64][65][66]

Người do thái Ashkenazi lừng danh

sửa

Người Do Thái Ashkenazi có một lịch sử thành tựu nổi trội trong các xã hội phương Tây [67] trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội, toán học, văn học, tài chính, chính trị, truyền thông và các lĩnh vực khác. Trong những xã hội mà người do thái Ashkenazi được tự do tham gia vào bất kỳ ngành nghề nào, họ có thành tích cao trong nghề nghiệp, dấn chân vào các ngành nghề và lĩnh vực thương mại đòi hỏi trình độ học vấn cao sang.[68] Người Do Thái Ashkenazi đã giành được một số lượng lớn các giải thưởng Nobel danh giá.[69]

Những danh nhân tổi tiếng của Tạp chí Time thế kỷ 20, Albert Einstein,[70] là một người Do Thái Ashkenazi. Theo một nghiên cứu do Đại học Cambridge thực hiện, 21% sinh viên Ivy League, 25% người đoạt giải Turing, 23% người Mỹ giàu có nhất, 38% đạo diễn phim đoạt giải Oscar và 29% người được giải Oslo là người Do Thái Ashkenazi..[71]

Di truyền học

sửa

Nguồn gốc di truyền

sửa
 
Nam giới người do thái Ashkenazi tóc đỏ

Nguồn gốc gien di truyền của người Do Thái Ashkenazi thông qua quá trình phân tích gene DNA bắt đầu từ những năm 1990. Hiện nay, có ba loại xét nghiệm nguồn gốc di truyền là DNA tự thể (atDNA), DNA ty thể (mtDNA) và DNA nhiễm sắc thể Y (Y-DNA). DNA tự tử là hỗn hợp từ toàn bộ tổ tiên của một cá nhân, Y-DNA chỉ cho thấy dòng dõi của nam giới theo dòng cha, mtDNA chỉ ra dòng dõi của bất kỳ người nào theo dòng mẹ. Các nghiên cứu về sự liên kết trên toàn bộ bộ gen cũng đã được sử dụng để mang lại những phát hiện liên quan đến nguồn gốc di truyền.

Những nghiên cứu này cho thấy rằng người Do Thái Ashkenazi có nguồn gốc từ một nhóm dân cư cổ đại (2000 TCN - 700 TCN) ở Trung Đông di cư sang châu Âu.[72] Người Do Thái Ashkenazic thể hiện sự đồng nhất của một nút thắt di truyền, nghĩa là họ xuất thân từ một quần thể lớn hơn có số lượng bị diệt chủng tàn sát đi rất nhiều nhưng được phục hồi thông qua một vài cá thể sáng lập. Mặc dù người Do Thái, nói chung, đã sinh sống ở một khu vực địa lý rộng lớn như được mô tả, nhưng nghiên cứu di truyền được thực hiện bởi Gil Atzmon thuộc Dự án Gen Trường sinh tại Đại học Y khoa Albert Einstein cho thấy giống dân do thái Ashkenazi đã tách ra khỏi những giống dân người Do Thái khác vào khoảng thời gian Ngôi đền Đầu tiên bị đập đổ, cách đây 2.500 năm... sự phát triển mạnh mẽ trong thời Đế chế La Mã nhưng sau đó trải qua một 'nút thắt cổ chai nghiêm trọng' khi họ bị rượt đuổi chém giết, giảm dân số từ vài triệu xuống chỉ còn 400 gia đình rời miền Bắc nước Ý vào khoảng năm 1000 để đến miền Trung và cuối cùng là Đông Âu. " [73]

Nhiều nghiên cứu khác nhau đã đưa ra kết luận khác nhau về cả mức độ và nguồn gốc lai hỗn hợp giữa gien phi Levanti trong bộ gien của người do thái Ashkenazim,[18] đặc biệt đối với mức độ của nguồn gốc di truyền phi Levantine được phát hiện thấy ở các dòng mẫu thân Ashkenazi, điều này trái ngược với nguồn gốc di truyền Levantine chiếm ưu thế được phát hiện thấy trong các dòng phụ thân của Ashkenazi. Tuy nhiên, tất cả các nghiên cứu đều đồng ý rằng sự trùng lặp di truyền cùng bộ gien vùng Lưỡi liềm màu mỡ tồn tại ở cả hai dòng họ, mặc dù với tỷ lệ khác nhau. Nói chung, người Do Thái Ashkenazi có rất ít sự đa dạng về mặt di truyền hơn so với các bộ phận dân tộc Do Thái khác, do nút cổ chai di truyền của họ.[74]

Dòng dõi nam: DNA nhiễm sắc thể Y

sửa

Phần lớn các phát hiện gien di truyền cho đến nay liên quan về người Do Thái Ashkenazi kết luận rằng các dòng giống đực rựa có nguồn gốc tổ tiên từ Trung Đông.[75][76][77]

Giả thuyết ngườ do thái Khazar

sửa

Vào cuối thế kỷ 19, người ta đề xuất rằng nguồn gốc tổ tiên của Người Do Thái Ashkenazi ngày nay là hậu duệ có gien di truyền từ một cộng đồng người Do Thái gốc Khazarian giả định đã di cư về phía tây từ Nga và Ukraine hiện đại vào Pháp và Đức hiện đại (trái ngược với giả thuyết hiện được cho rằng người Do Thái di cư từ Pháp và Đức vào Đông Âu).[78][79]

Di truyền y học

sửa
 
Sư phụ người Do Thái Ashkenazi tóc nâu

Có rất nhiều tài liệu tham khảo về người Do Thái Ashkenazi trong các tài liệu về di truyền nhân chủng học và y tế. Người Do Thái Ashkenazi là một chủng tộc có nhiều các nghiên cứu di truyền về bệnh tật, bao gồm nhiều nghiên cứu được báo cáo đầy đủ trên các phương tiện truyền thông, đã được xét nghiệm trong các cộng đồng người Do Thái. Dân số Do Thái đã được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn hầu hết so với các nhóm dân cư khác thuộc dân tộc khác, vì nhiều lý do:

  • Dân số Do Thái, và đặc biệt là người Do Thái Ashkenazi, là mẫu dân số lý tưởng cho các nghiên cứu khoa học, bởi vì người do thái Ashkenazi kết hôn đồng chủng nhiều và giữ bộ gien thuần khiết nên dễ dàng nghiên cứu thuận tiện.[80]
  • Các cộng đồng Do Thái dễ hợp tác tình nguyện trong các cuộc xét nghiệm gien di truyền, như thế dễ dàng làm việc cho các nghiên cứu khoa học để ngăn ngừa các bệnh di truyền nguy hiểm.

Điều này đôi khi tạo ra ấn tượng rằng người Do Thái dễ mắc các bệnh di truyền hiểm nghèo hơn các dân tộc khác.[80] Các chuyên gia chăm sóc sức khỏe thường được đào tạo để biết rằng những người do thái Ashkenazi có nguy cơ mắc ung thư đại trực tràng cao nhất so với các chủng tộc khác.[81]

Tư vấn di truyền và xét nghiệm di truyền thường được xem nhẹ đối với các cặp vợ chồng mà cả hai đều có tổ tiên là người do thái Ashkenazi. Một số tổ chức, đáng chú ý nhất là Dor Yeshorim, tổ chức các chương trình sàng lọc để ngăn ngừa sự đồng hợp tử đối với các gen gây ra các bệnh di truyền hiểm nghèo liên quan.[82][83]

Danh sách 58 bệnh gien di truyền hiểm ác của người do thái Ashkenazi [84]:

sửa

3-Phosphoglycerate Dehydrogenase Deficiency

Abetalipoproteinemia

Hội chứng Alport

Arthrogryposis, chậm phát triển trí tuệ và co giật

Hội chứng Bardet-Biedl

Hội chứng Bloom

Bệnh Canavan

Carnitine Palmitoyltransferase ll Deficiency

Choreoacanthocytosis

Congenital Amegakaryocytic Thrombocytopenia

Congenital Disorder of Glycosylation la

Xơ Nang

Deafness-Autosomal Recessive 77

Dyskeratosis Congenita, Autosomal Recessive

Ehlers-Danlos VllC

Hội chứng Enhanced S-Cone

Factor XI Deficiency

Familial Dysautonomia

Familial Hypercholesterolemia

Familial Hyperinsulinism

Familial Mediterranean Fever

Fanconi Anemia-Group C

Fragile X Syndrome

Galactosemia

Bệnh Gaucher

Bệnh ứ đọng glycogen loại I

Bệnh ứ đọng glycogen loại II

Bệnh ứ đọng glycogen loại IV / Adult Polyglucosan Body Disease

Bệnh ứ đọng glycogen loại VII

Hermansky-Pudlak Syndrome 3

Joubert Syndrome 2

Lipoamide Dehydrogenase Deficiency

Maple Syrup Urine Disease 1B

Mitochondrial Complex 1 Deficiency

Mucolipidosis IV (ML4)

Multiple Sulphatase Deficiency

Nemaline Myopathy 2

Niemann-Pick Disease Type A/B

Nonsyndromic Hearing Loss

Osteopetrosis 1

Phenylalanine Hydroxylase Deficiency

Polycystic Kidney Disease, Autosomal Recessive

Pontocerebellar Hypoplasia Type 1A

Primary Ciliary Dyskinesia DNAH5

Primary Ciliary Dyskinesia DNAI1

Primary Ciliary Dyskinesia DNAI2

Primary Hyperoxaluria Type 3

Retinitis Pigmentosa 28

Retinitis Pigmentosa 59

Hội chứng Smith–Lemli–Opitz

Spinal Muscular Atrophy

Bệnh Tay–Sachs

Tyrosinemia-Type 1

Usher Syndrome-Type IF

Usher Syndrome-Type III

Walker Warburg Syndrome and Other FKTN-Related Dystrophies

Bệnh Wilson

Zellweger Syndrome Spectrum-PEX2

Xem thêm

sửa
  • Sự chia rẽ dân tộc Do Thái
  • Danh sách những người Do Thái Ashkenazi Israel

Ghi chú

sửa

 

Tham khảo

sửa
  1. ^ Wells, John (ngày 3 tháng 4 năm 2008). Longman Pronunciation Dictionary (ấn bản thứ 3). Pearson Longman. ISBN 978-1-4058-8118-0.
  2. ^ a b Mosk, Carl (2013). Nationalism and economic development in modern Eurasia. New York: Routledge. tr. 143. ISBN 9780415605182. In general the Ashkenazi originally came out of the Holy Roman Empire, speaking a version of German that incorporates Hebrew and Slavic words, Yiddish. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Mosk” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  3. ^ Henry L. Feingold (1995). Bearing Witness: How America and Its Jews Responded to the Holocaust. Syracuse University Press. tr. 36. ISBN 9780815626701.
  4. ^ Eric Hobsbawm (2002). Interesting Times: A Twentieth Century Life. Abacus Books. tr. 25.
  5. ^ Glenda Abramson (ed.
  6. ^ T. C. W. Blanning (ed.
  7. ^ “Ashkenazi - people”. Encyclopedia Britannica.
  8. ^ Centre, UNESCO World Heritage. “ShUM cities of Speyer, Worms and Mainz”. whc.unesco.org.
  9. ^ a b Ben-Sasson, Haim Hillel, et al (2007).
  10. ^ Mosk (2013), p. 143.
  11. ^ Harshav, Benjamin (1999).
  12. ^ Yaacov Ro'i, "Soviet Jewry from Identification to Identity", in Eliezer Ben Rafael, Yosef Gorni, Yaacov Ro'i (eds.
  13. ^ Dov Katz, "Languages of the Diaspora", in Mark Avrum Ehrlich (ed.
  14. ^ Brunner, José (2007). Demographie – Demokratie – Geschichte: Deutschland und Israel (bằng tiếng Đức). Wallstein Verlag. tr. 197. ISBN 978-3835301351.
  15. ^ “The Jewish Population of the World (2010)”. Jewish Virtual Library.
  16. ^ Sergio DellaPergola (2008). "Sephardic and Oriental" Jews in Israel and Countries: Migration, Social Change, and Identification”. Trong Peter Y. Medding (biên tập). Sephardic Jewry and Mizrahi Jews. X11. Oxford University Press. tr. 3–42. ISBN 978-0199712502.
  17. ^ Focus on Genetic Screening Research, ed.
  18. ^ a b Costa, Marta D.; Pereira, Joana B.; Pala, Maria; Fernandes, Verónica; Olivieri, Anna; Achilli, Alessandro; Perego, Ugo A.; Rychkov, Sergei; Naumova, Oksana (ngày 8 tháng 10 năm 2013). “A substantial prehistoric European ancestry amongst Ashkenazi maternal lineages”. Nature Communications. 4 (1): 2543. Bibcode:2013NatCo...4.2543C. doi:10.1038/ncomms3543. PMC 3806353. PMID 24104924. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “Summary of Recent Genetic Studies” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  19. ^ Behar, Doron M.; Ene Metspalu; Toomas Kivisild; Alessandro Achilli; Yarin Hadid; Shay Tzur; Luisa Pereira; Antonio Amorim; Lluı's Quintana-Murci (tháng 3 năm 2006). “The Matrilineal Ancestry of Ashkenazi Jewry: Portrait of a Recent Founder Event” (PDF). American Journal of Human Genetics. 78 (3): 487–97. doi:10.1086/500307. PMC 1380291. PMID 16404693. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2008.
  20. ^ Eva Fernández; Alejandro Pérez-Pérez; Cristina Gamba; Eva Prats; Pedro Cuesta; Josep Anfruns; Miquel Molist; Eduardo Arroyo-Pardo; Daniel Turbón (ngày 5 tháng 6 năm 2014). “Ancient DNA Analysis of 8000 B.C. Near Eastern Farmers Supports an Early Neolithic Pioneer Maritime Colonization of Mainland Europe through Cyprus and the Aegean Islands”. PLOS Genetics. 10: e1004401. doi:10.1371/journal.pgen.1004401. PMC 4046922. PMID 24901650.
  21. ^ Xue J, Lencz T, Darvasi A, Pe'er I, Carmi S (tháng 4 năm 2017). “The time and place of European admixture in Ashkenazi Jewish history”. PLOS Genetics. 13 (4): e1006644. doi:10.1371/journal.pgen.1006644. PMC 5380316. PMID 28376121.
  22. ^ Russell E. Gmirkin, Berossus and Genesis, Manetho and Exodus: Hellenistic Histories and the Date of the Pentateuch, T & T Clark, Edinburgh, 2006 pp. 148, 149 n.57.
  23. ^ Sverre Bøe, Gog and Magog: Ezekiel 38–39 as Pre-text for Revelation 19, 17–21 and 20, 7–10, Tübingen: Mohr Siebeck, 2001, p. 48: "An identification of Ashkenaz and the Scythians must not... be considered as sure, though it is more probable than an identification with Magog."
  24. ^ Vladimir Shneider, Traces of the Ten.
  25. ^ a b Paul Kriwaczek, Yiddish Civilisation, Hachette 2011 p. 173 n. 9.
  26. ^ Otto Michel "Σκύθης", in Gerhard Kittel, Geoffrey William Bromiley, Gerhard Friedrich (eds.
  27. ^ a b "Ashkenaz" in Michael Berenbaum and Fred Skolnik (eds.
  28. ^ Michael Miller, Rabbis and Revolution: The Jews of Moravia in the Age of Emancipation Stanford University Press,2010 p. 15.
  29. ^ Michael Brenner, A Short History of the Jews Princeton University Press (2010), p. 96.
  30. ^ Malkiel p. ix
  31. ^ Mark Avrum Ehrlich, ed. (2009).
  32. ^ Gruen, Erich S.:The Construct of Identity in Hellenistic Judaism: Essays on Early Jewish Literature and History, p. 28 (2016).
  33. ^ E. Mary Smallwood (2008) "The Diaspora in the Roman period before A.D. 70."
  34. ^ Davies, William David; Finkelstein, Louis; Horbury, William; Sturdy, John; Katz, Steven T.; Hart, Mitchell Bryan; Michels, Tony; Karp, Jonathan; Sutcliffe, Adam; Chazan, Robert: The Cambridge History of Judaism: The early Roman period, p.168 (1984), Cambridge University Press
  35. ^ The Jews Under Roman Rule: From Pompey to Diocletian: a Study in Political Relations, p. 131
  36. ^ Flavius Josephus: The Judean War Lưu trữ 2018-11-16 tại Wayback Machine, Book 6, Chapter 9
  37. ^ E. Mary Smallwood, The Jews Under Roman Rule: From Pompey to Diocletian: a Study in Political Relations, Brill Publishers, 2001, p. 507.
  38. ^ Erich S. Gruen, Diaspora: Jews Amidst Greeks and Romans Harvard University Press, 2009 pp. 3–4, 233–234: "Compulsory dislocation,... cannot have accounted for more than a fraction of the diaspora.
  39. ^ Cecil Roth (1966). Cecil Roth; I. H. Levine (biên tập). The World History of the Jewish People: The Dark Ages, Jews in Christian Europe, 711–1096. 11. Jewish historical publications. tr. 302–03. Was the great Eastern European Jewry of the 19th century preponderantly descended (as is normally believed) from immigrants from the Germanic lands further west who arrived as refugees in the later Middle Ages, bearing with them their culture? Or did these new immigrants find already on their arrival a numerically strong Jewish life, on whom they were able to impose their superior culture, including even their tongue (a phenomenon not unknown at other times and places – as for example in, the 16th century, after the arrival of the highly cultured Spanish exiles in the Turkish Empire)?) Does the line of descent of Ashkenazi Jewry of today go back to a quasi-autochthonous Jewry already established in these lands, perhaps even earlier than the time of the earliest Franco-German settlement in the Dark Ages? This is one of the mysteries of Jewish history, which will probably never been solved.
  40. ^ Bernard Dov Weinryb (1972). The Jews of Poland: A Social and Economic History of the Jewish Community in Poland from 1100–1800. Jewish Publication Society. tr. 17–22. ISBN 978-0827600164.
  41. ^ K. R. Stow, The Jews in Rome: The Roman Jew.
  42. ^ Wesselius, J.W. (2002). Camp, Claudia V.; Mein, Andrew (biên tập). The Origin of the History of Israel. tr. 99. ISBN 978-0567564252. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2019.
  43. ^ David Sacks, A Dictionary of the Ancient Greek World, p. 126
  44. ^ Dan Urman, Paul Virgil McCracken Flesher, eds.
  45. ^ “Hellenism”. www.jewishvirtuallibrary.org.
  46. ^ "The Origins of Reform Judaism."
  47. ^ "Pronunciations of Hebrew."
  48. ^ Lieberman, Asaf (ngày 18 tháng 1 năm 2013). “The unbearable lightness of being Ashkenazi”. Haaretz. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2014.
  49. ^ Rosenthal, Rachel (2006). “What's in a name?”. Kedma (Winter 2006).
  50. ^ Greenberg, Richard; Cohen, Debra Nussbaum (Fall 2005). “Uncovering the Un-Movement” (PDF). B'nai B'rith Magazine. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2013.
  51. ^ Donadio, Rachel (ngày 10 tháng 8 năm 2001). “Any Old Shul Won't Do for the Young and Cool”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2006.
  52. ^ “What is Yiddishkeit?”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2013.
  53. ^ Weiner, Ben. “Reconstructing Yiddishkeit” (PDF). Reconstructionist Rabbinical College. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2013.
  54. ^ Wade, Nicholas (ngày 14 tháng 1 năm 2006). “New Light on Origins of Ashkenazi in Europe”. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2006.
  55. ^ Wade, Nicholas (ngày 9 tháng 5 năm 2000). “Y Chromosome Bears Witness to Story of the Jewish Diaspora”. The New York Times.
  56. ^ Seldin MF, Shigeta R, Villoslada P, và đồng nghiệp (tháng 9 năm 2006). “European population substructure: clustering of northern and southern populations”. PLOS Genet. 2 (9): e143. doi:10.1371/journal.pgen.0020143. PMC 1564423. PMID 17044734.
  57. ^ Tallit: Jewish Prayer Shawl. Religionfacts.com. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2013.
  58. ^ John M. Efron (2015). German Jewry and the Allure of the Sephardic. Princeton University Press. tr. 97. ISBN 9781400874194.
  59. ^ Jordan Paper (2012). The Theology of the Chinese Jews, 1000–1850. Wilfrid Laurier Univ. Press. tr. 7. ISBN 9781554584031.
  60. ^ Pearl Goodman (2014). Peril: From Jackboots to Jack Benny. Bridgeross Communications. tr. 248–9. ISBN 9780987824486.
  61. ^ Alan Arian (1995). Security Threatened: Surveying Israeli Opinion on Peace and War . Cambridge University Press. tr. 147. ISBN 9780521499255.
  62. ^ David Shasha (ngày 20 tháng 6 năm 2010). “Understanding the Sephardi-Ashkenazi Split”. The Huffington Post. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2015.
  63. ^ Michael Balter (ngày 3 tháng 6 năm 2010). “Tracing the Roots of Jewishness”. Science. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2013.
  64. ^ “Did You Know 25% of Chabad in Montreal are Sefardi?”. The Chabad Sociologist. ngày 9 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2013.
  65. ^ Shahar, Charles.
  66. ^ Chua, Amy (2003). World on Fire. Anchor Books. tr. 217. ISBN 978-0-385-72186-8. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2019.
  67. ^ Murray, Charles (tháng 4 năm 2007). “Jewish Genius”. Commentary Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2007. Disproportionate Jewish accomplishment in the arts and sciences continues to this day.
  68. ^ Murray, Charles (tháng 4 năm 2007). “Jewish Genius”. Commentary Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2007. From 1870 to 1950, Jewish representation in literature was four times the number one would expect. In music, five times. In the visual arts, five times. In biology, eight times. In chemistry, six times. In physics, nine times. In mathematics, twelve times. In philosophy, fourteen times.
  69. ^ Pinker, Steven (ngày 17 tháng 6 năm 2006). “The Lessons of the Ashkenazim: Groups and Genes”. The New Republic. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2007. Though never exceeding 3 percent of the American population, Jews account for 37 percent of the winners of the U.S. National Medal of Science, 25 percent of the American Nobel Prize winners in literature, 40 percent of the American Nobel Prize winners in science and economics, and so on.
  70. ^ Frederic Golden (ngày 31 tháng 12 năm 1999). “Albert Einstein”. Time. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2013.
  71. ^ Nelly Lalany (ngày 23 tháng 7 năm 2011). “Ashkenazi Jews rank smartest in world”. Ynetnews. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2013.
  72. ^ Tony Nick Frudakis (ngày 19 tháng 7 năm 2010). Molecular Photofitting: Predicting Ancestry and Phenotype Using DNA. tr. 383. ISBN 978-0080551371.
  73. ^ Jesse Green (ngày 6 tháng 11 năm 2011). “What Do a Bunch of Old Jews Know About Living Forever?”. New York Magazine. Truy cập ngày 19 tháng 7 năm 2013.
  74. ^ Bloch, Talia (ngày 19 tháng 8 năm 2009). “The Other Jewish Genetic Diseases”. The Jewish Daily Forward. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2013.
  75. ^ Jared Diamond (1993). “Who are the Jews?” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2010. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  76. ^ M.F. Hammer; A.J. Redd; E.T. Wood; M.R. Bonner; H. Jarjanazi; T. Karafet; S. Santachiara-Benerecetti; A. Oppenheim; M.A. Jobling (2000). “Jewish and Middle Eastern non-Jewish populations share a common pool of Y-chromosome biallelic haplotypes”. PNAS. 97: 6769–6774. Bibcode:2000PNAS...97.6769H. doi:10.1073/pnas.100115997. PMC 18733. PMID 10801975.
  77. ^ Wade, Nicholas (ngày 9 tháng 5 năm 2000). “Y Chromosome Bears Witness to Story of the Jewish Diaspora”. The New York Times. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2012.
  78. ^ Kizilov, Mikhail (ngày 2 tháng 7 năm 2018). The Karaites of Galicia: An Ethnoreligious Minority Among the Ashkenazim, the Turks, and the Slavs, 1772–1945. Brill. ISBN 978-9004166028 – qua Google Books.
  79. ^ Rubin 2013.
  80. ^ a b Carmeli, Daphna Birenbaum (ngày 15 tháng 9 năm 2004). “Prevalence of Jews as subjects in genetic research: Figures, explanation, and potential implications”. American Journal of Medical Genetics. 130A (1): 76–83. doi:10.1002/ajmg.a.20291. PMID 15368499. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “JewsasSubjects” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  81. ^ Agency for Healthcare Research and Quality. (2009).
  82. ^ E. L. Abel's book Jewish Genetic Disorders: A Layman's Guide, McFarland, 2008: ISBN 0786440872
  83. ^ See Chicago Center for Jewish Genetic Disorders
  84. ^ https://www.jewishgeneticdiseases.org/jewish-genetic-diseases/.

Liên kết ngoài

sửa