Panzer IV
Panzerkampfwagen IV (Pz.Kpfw. IV), thường được gọi là Panzer IV, là xe tăng hạng trung của Đức Quốc xã được thiết kế vào cuối những năm 1930 và được sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nó là xe tăng duy nhất của Đức được sản xuất từ đầu đến hết chiến tranh. Số hiệu kỹ thuật của nó là Sd.Kfz.161.
Panzerkampfwagen IV | |
---|---|
Panzer IV Ausf G. ngụy trang màu cát, mang phù hiệu cây cọ của Sư đoàn Panzer 15 Korps Afrika. | |
Loại | Xe tăng hạng trung |
Nơi chế tạo | Đức Quốc xã |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1939–1967 |
Sử dụng bởi | |
Trận | Chiến tranh thế giới thứ hai, Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948, Chiến tranh Sáu ngày |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Krupp |
Năm thiết kế | 1936 |
Nhà sản xuất | Krupp, Steyr-Daimler-Puch |
Giá thành | ~ 103,462 Mác Đức[1] |
Giai đoạn sản xuất | 1936–45 |
Số lượng chế tạo | 8.553 |
Thông số (Pz IV Ausf H, 1943[2]) | |
Khối lượng | 25,0 tấn (27,6 tấn Mỹ; 24,6 tấn Anh) |
Chiều dài | 5,92 mét (19 ft 5 in) 7,02 mét (23 ft 0 in) cả nòng súng |
Chiều rộng | 2,88 m (9 ft 5 in) |
Chiều cao | 2,68 m (8 ft 10 in) |
Kíp chiến đấu | 5 (Chỉ huy, pháo thủ, nạp đạn viên, lái xe, liên lạc viên/xạ thủ súng máy) |
Phương tiện bọc thép | 10–80 mm (0,39–3,15 in) |
Vũ khí chính | súng chính 7.5 cm (2.95 in) KwK 40 L/48 (87 rds.) |
Vũ khí phụ | 2–3 × 7.92-mm Maschinengewehr 34 |
Động cơ | 12-xi lanh Maybach HL 120 TRM V12 300 PS (296 hp, 220 kW) |
Công suất/trọng lượng | 12 PS/t |
Hệ truyền động | Tỷ lệ tiến lùi là 6:1 |
Hệ thống treo | Leaf spring |
Sức chứa nhiên liệu | 470 l (120 gal Mỹ) |
Tầm hoạt động | 200 km (120 mi) |
Tốc độ | 42 km/h (26 mph) trên đường, 16 km/h (9,9 mph) trên đường trường |
Thiết kế ban đầu như một chiếc xe tăng hỗ trợ bộ binh, Panzer IV được dự định là sẽ yểm trợ bộ binh tấn công chứ không tham gia giao chiến với các đơn vị thiết giáp của đối phương, nhiệm vụ vốn được thực hiện bởi Panzer III. Tuy nhiên, những sai sót của học thuyết này trở nên rõ ràng khi xe tăng Đức phải đối mặt với loại xe tăng T-34 mạnh mẽ của Liên Xô. Panzer IV sớm được sửa đổi để đảm nhận vai trò chống xe tăng đối phương của người anh là Panzer III, vốn ngày càng tỏ ra lỗi thời. Được Đức sản xuất rộng rãi nhất và triển khai nhiều nhất trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Panzer IV được sử dụng như là khung thân cho nhiều phương tiện chiến đấu khác, bao gồm cả pháo tự hành xung kích Sturmgeschütz IV, pháo tự hành chống tăng Jagdpanzer IV, pháo tự hành phòng không Wirbelwind, và pháo tự hành Brummbär.
Mạnh mẽ và đáng tin cậy, nó phục vụ trong tất cả chiến trường liên quan đến Đức và có sự khác biệt với các xe tăng Đức lúc đó là nó được duy trì sản xuất liên tục trong suốt cuộc chiến, với hơn 8.550 chiếc được chế tạo từ năm 1936 tới 1945, chưa kể 4.600 pháo tự hành được chế tạo dựa trên khung thân Panzer IV. Trong giai đoạn đó, Panzer IV liên tục có các bản nâng cấp và sửa đổi thiết kế, thường được thực hiện để đáp ứng với sự xuất hiện của xe tăng mới của Đồng minh, nhằm tăng khả năng chiến đấu của mình. Nói chung, việc nâng cấp bao gồm gia tăng giáp bảo vệ của Panzer IV và tăng cường vũ khí của nó, mặc dù trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến, với nhu cầu bức thiết để thay thế nhanh chóng các thiệt hại, việc thay đổi thiết kế cũng bao gồm các biện pháp để đơn giản hóa và tăng tốc độ sản xuất.
Ở mặt trận phía Tây, Panzer IV có thể đối đầu hiệu quả với các xe tăng Anh - Mỹ như M4 Sherman, xe tăng Churchill... trong suốt cuộc chiến. Trong khi đó ở mặt trận phía Đông, Panzer IV được coi là đối thủ thiết kế với loại T-34 của Liên Xô (cả hai đều là xe tăng hạng trung chủ lực), cả Đức và Liên Xô đều liên tục nâng cấp loại xe của mình hòng vượt qua đối thủ. Đến đầu năm 1944, Panzer IV đã bị đánh bại bởi phiên bản nâng cấp của T-34 là T-34-85 (trang bị pháo 85 mm và tháp pháo cải tiến)[3] Tuy nhiên, do sự thiếu hụt của xe tăng Panther để thay thế, Panzer IV vẫn tiếp tục là nòng cốt của các sư đoàn thiết giáp của Đức, bao gồm cả các đơn vị ưu tú như Quân đoàn Panzer SS II trong suốt chiến tranh.[4]
Panzer IV là xe tăng xuất khẩu rộng rãi nhất của Đức Quốc xã, với khoảng 300 chiếc được bán cho các đối tác như Phần Lan, România, Tây Ban Nha và Bulgaria. Sau chiến tranh, Pháp và Tây Ban Nha bán hàng chục chiếc Panzer IV cho Syria, nước này đã dùng Panzer IV tham chiến trong cuộc Chiến tranh Sáu ngày năm 1967.
Lịch sử phát triển
sửaNguồn gốc
sửaPanzer IV là đứa con tinh thần của chiến tranh thiết giáp nói chung và sáng tạo của nhà lý luận Đức, đại tướng Heinz Guderian.[5] Trong khái niệm, nó được dự định là một chiếc xe tăng hỗ trợ cho bộ binh, sử dụng để tiêu diệt pháo chống tăng và công sự của kẻ thù, trong khi loại Panzer III được dùng để tiêu diệt tăng thiết giáp của kẻ thù[6] Theo Guderian, lý tưởng nhất thì các tiểu đoàn xe tăng của sư đoàn thiết giáp sẽ có ba đại đội xe tăng hạng trung Panzer III và một đại đội xe tăng Panzer IV.[7]
Ngày 11 tháng 1 năm 1934, quân đội Đức đã viết các chi tiết kỹ thuật cho một "thân xe kéo hạng trung", và đã ban hành cho một số các công ty quốc phòng. Để hỗ trợ các Panzer III vốn được trang bị một khẩu súng chống tăng 37 mm (1.46 in), chiếc xe mới sẽ có đại bác nòng ngắn 75 mm (2.95 in) là pháo chính, giới hạn trọng lượng là trong tầm 24 tấn (26,46 tấn ngắn). Sự phát triển được thực hiện dưới cái tên Begleitwagen ("xe đi kèm"),[8] hay BW, để che giấu mục đích thực tế của nó, bởi vì Đức, về mặt lý thuyết, vẫn còn bị ràng buộc bởi Hiệp ước Versailles.[9] MAN, Krupp, và Rheinmetall-Borsig đều phát triển một nguyên mẫu cho mình,[7] và nguyên mẫu của Krupp được lựa chọn để tiếp tục phát triển.[10]
Ban đầu, khung xe đã được thiết kế với hệ thống treo đan xen sáu bánh (giống như hệ thống treo của xe kéo quân sự bán bánh xích đang được Đức sử dụng), nhưng quân đội Đức đã sửa đổi điều này thành hệ thống thanh xoắn, điều này được dự định để cải thiện hiệu suất và kíp lái thoải mái cả trên và không trên đường.[10][11] Tuy nhiên, do yêu cầu cấp thiết cho các xe tăng mới, đề nghị không được thông qua, và Krupp đã trang bị hệ thống treo lá lò xo.
Nguyên mẫu yêu cầu kíp lái gồm năm người, thân tăng có khoang động cơ phía sau. Lái xe ngồi phía trước bên trái cùng với liên lạc viên kiêm xạ thủ súng máy ở bên phải. Trong tháp pháo, chỉ huy xe tăng ngồi dưới cửa nắp, trong khi xạ thủ nằm bên trái của súng chính và nạp đạn viên ngồi bên phải. Tháp pháo lệch 66,5 mm (2,62 in) về bên trái so với trung tâm khung xe, trong khi động cơ lệch 152,4 mm (6,00 in) về bên phải. Điều này cho phép các trục mô-men xoắn tránh được trục khung tháp pháo đồng thời cung cấp năng lượng điện để quay tháp pháo, trong khi kết nối với hộp truyền dẫn được gắn trong thân, ở giữa phía trước lái xe và liên lạc viên. Do bố trí không đối xứng, phía bên phải bị gia tăng khối lượng, người ta đã đưa thùng đạn lên để cân bằng lại.[10]
Được sản xuất với số hiệu Versuchskraftfahrzeug 622 (Vs.Kfz. 622),[9] sản xuất bắt đầu năm 1936 ở nhà máy Krupp-Grusonwerke AG's tại Magdeburg.[12]
Ausf. A tới Ausf. F1
sửaLoạt sản xuất đầu tiên của Panzer IV là Ausführung A (viết tắt là Ausf. A, nghĩa là "Biến thể A"), vào năm 1936. Nó chạy bằng động cơ Maybach HL 108TR, sản sinh ra 250 PS (183,87 kW), và sử dụng bộ truyền tải SGR 75,[13] đạt vận tốc tối đa trên đường là 31 kilômét trên giờ (19,26 mph).[14].Vũ khí chính của xe là pháo Kampfwagenkanone 37 L/24 (KwK 37 L/24) 75 mm (2.95 in), một khẩu pháo có sơ tốc đạn thấp, được thiết kế chủ yếu là để phá hủy công sự của đối phương.[15] Khi chống lại các mục tiêu bọc thép, thì pháo sử dụng đạn Panzergranate (đạn xuyên hỗn hợp cứng) với sơ tốc đạn là 430 m/s (1.410 ft/s). KwK 37 có thể xuyên thủng lớp giáp dày 43 mm (1,69 in) ở độ nghiêng 30 độ với phạm vi lên đến 700 mét (2300 ft).[16] Một súng máy MG-34 7,92 mm (0,31 in) được gắn đồng trục với súng chính trong tháp pháo, trong khi một khẩu súng máy thứ hai của cùng loại được gắn ở phía trước của thân tăng.[10] Ausf.A được bảo vệ bởi lớp tấm thép dày 14,5 mm (0.57 in) phía trước của khung xe, và 20mm trên tháp pháo. Lớp giáp này có khả năng ngăn được mảnh pháo, các loại vũ khí bộ binh, và đầu đạn chống tăng hạng nhẹ.[17]
Sau khi sản xuất 35 xe tăng của các phiên bản A, năm 1937, sản xuất chuyển đến mẫu Ausf. B.[9] Cải tiến bao gồm việc thay thế động cơ ban đầu bằng loại mạnh hơn với hơn 300 mã lực (220,65 kW) Maybach HL 120TR, và truyền tải với bộ truyền dẫn mới SSG 75. Mặc dù điều này làm gia tăng trọng lượng đến 16 tấn, nhưng tốc độ của xe tăng vẫn được cải thiện đến 39 km/h (24 mph).[18] Các tấm giáp nghiên đã được tăng cường để có độ dày tối đa 30 mm (1,18 in),[17] và súng máy gắn trên thân tăng đã được thay thế. 42 chiếc Panzer IV Ausf. B được sản xuất trước khi giới thiệu mẫu Ausf. C vào năm 1938.[9][19] Điều này thấy giáp tháp pháo tăng lên 30 mm (1,18 in), trọng lượng của xe tăng đến 18,14 tấn.[15] Khi Đức xâm lược Ba Lan vào tháng 9 năm 1939 kết thúc, Đức đã quyết định mở rộng quy mô sản xuất của Panzer IV, đã được thông qua vào ngày 27 tháng 9 năm 1939 với số hiệu là Sonderkraftfahrzeug 161 (Sd.Kfz 161.).[9]
Để đáp ứng với những khó khăn của việc xuyên giáp xe tăng bộ binh Anh Matilda trong trận chiến nước Pháp, người Đức đã thử nghiệm pháo 50 mm (1,97 in) dựa trên pháo chống tăng 5 cm Pak 38 L/60 trên Panzer IV Ausf-D. Tuy nhiên, với chiến thắng nhanh chóng của Đức ở Pháp, việc này bị hủy bỏ trước khi bước vào sản xuất.[20]
Trong tháng 9 năm 1940, phiên bản Ausf. E được giới thiệu. Phiên bản này có lớp giáp dày 50 mm (1,97 in) bảo vệ mặt trước, các tấm nghiêng thì dày 30 mm (1,18 in). Cuối cùng, vòm của chỉ huy đã được di chuyển về phía trước tháp pháo. Các đời Panzer IV cũ hơn được trả lại cho nhà sản xuất để được trang bị thêm các tính năng này. 280 Ausf.E đã được sản xuất từ tháng 12 năm 1939 đến tháng 4 năm 1941.[19]
Trong tháng 4 năm 1941, Đức sản xuất mẫu Panzer IV Ausf. F. Đặc trưng của phiên bản này là có 50 mm giáp ở trước tháp pháo và thân tăng (1,97 in)[19] và gia tăng giáp hông lên 30 mm (1,18 in).[21] Trọng lượng của chiếc xe là 22,3 tấn, yêu cầu sửa đổi tương ứng với xích từ 380 đến 400 mm (14,96-15,75) để giảm áp lực lên mặt đất. Đường kính xích rộng hơn cũng tạo điều kiện thuận lợi việc lắp khớp ly hợp, và các bánh xe và xích cũng được sửa đổi.[22] Phiên bản Ausf. F được nâng cấp thành Ausf. F1, sau đó là một phiên bản mới khác biệt là Ausf. F2 xuất hiện. Tổng cộng 464 Ausf. F (sau này là F1) được sản xuất từ tháng 4 năm 1941 đến tháng 3 năm 1942, trong đó có 25 chiếc được chuyển đổi sang F2.
Ausf. F2 tới Ausf. J
sửaNgày 26 tháng năm 1941, chỉ vài tuần trước Chiến dịch Barbarossa, trong một cuộc họp với Hitler, Đức đã quyết định cải thiện trang bị pháo chính của Panzer IV. Krupp đã được trao hợp đồng để để lắp khẩu pháo 50 mm Pak 38 L/60 vào tháp pháo. Nguyên mẫu đầu tiên được chuyển giao ngày 15 tháng 11 năm 1941.[23]
Trong vòng vài tháng, cú sốc gặp phải xe tăng hạng trung T-34 và xe tăng hạng nặng KV-1 đòi hỏi Panzer IV phải được nâng cấp, trang bị pháo chính mạnh hơn rất nhiều[24] Trong tháng 11 năm 1941, quyết định thay thế pháo chính của Panzer IV bằng pháo cỡ nòng 50 mm L/60 đã bị hủy bỏ vì loại pháo này vẫn chưa đủ để bắn xuyên giáp trước của T-34. Hãng Krupp, Rheinmetall đã được ký hợp đồng phát triển để nâng cấp pháo chính của Panzer IV lên cỡ 7,5 cm L/46 Pak 40. Sau đó, do chiều dài và độ giật không phù hợp với tháp pháo của xe tăng, nên cơ chế giật và ngăn đạn đã được rút ngắn. Điều này dẫn đến sự ra đời của 75 mm KwK 40 L/43.[25] Khi bắn đạn xuyên giáp, sơ tốc đạn của pháo 75mm L/24 chỉ là 430 m/s, trong khi pháo 75mm L/43 đã tăng lên đến 990 m/s[22] Ban đầu, súng được gắn với một khoang đạn, bộ hãm nòng, nên độ giật được giảm tới 50%.[26] Khi bắn đạn Panzergranate 39, KwK 40 75mm L/43 có thể xuyên được tới 77 mm (3,03 in) giáp thép ở phạm vi 1.830 m (6000 ft).[27]
Phiên bản sau của xe tăng Ausf-F mang pháo dài hơn, nó sử dụng pháo KwK-40 75mm L/43, được đặt tên là Ausf. F2 (với số hiệu là Sd.Kfz 161/1). Trọng lượng tăng lên 23,6 tấn. 175 chiếc Ausf-F2 đã được sản xuất từ tháng 3 năm 1942 đến tháng 7 năm 1942. Ba tháng sau khi bắt đầu sản xuất, Panzer IV Ausf-F2 đã được đổi tên thành Ausf-G.[28]
Trong suốt thời gian sản xuất từ tháng 5 năm 1942 đến tháng 6 năm 1943, Panzer IV Ausf-G đã thông qua sửa đổi thêm, bao gồm nâng cấp giáp. Các nhà thiết kế cho rằng chiếc xe tăng đã đạt đến giới hạn thiết kế của nó, nên để tránh tăng trọng lượng tăng lên, các tấm chắn 20 mm trên tháp pháo(0,79 in) đã bị gỡ bỏ, mà thay vào đó là tấm thép dày tăng lên đến 30 mm (1,18 in). Trọng lượng xe lại tăng về phía trước, trong đó có 30 mm (1,18 in) thép tấm chắn hàn (sau này bắt vít), làm tăng độ dày giáp trước thân xe lên đến 80 mm (3,15 in).[29] Quyết định gia tăng lớp giáp phía trước thu được sự ủng hộ của các tổ lái theo báo cáo của quân đội vào ngày 8 tháng 11 năm 1942, mặc dù vấn đề kỹ thuật của hệ thống lái xe do trọng lượng thêm vào. Tại thời điểm này, đã có 50% của Panzer IV sản xuất được trang bị với tấm áo giáp 30mm. Sau đó, vào ngày 5 tháng 1 năm 1943, Hitler quyết định sản xuất Panzer IV với 80 mm giáp trước thân xe (giáp trước tháp pháo thì giữ nguyên độ dày 50 mm).[30]
Để đơn giản hóa sản xuất, các cửa quan sát ở hai bên của tháp pháo và trên mặt trước tháp pháo phải được loại bỏ, trong khi một giáp phụ hai bên xích xe đã được trang bị để bảo vệ ở phía bên của thân tăng. Bổ sung này, khung cho bảy liên kết theo dõi phụ tùng đã được thêm vào các tấm bảo vệ mặt trước. Đối với hoạt động ở nhiệt độ cao, thông gió của động cơ được cải thiện bằng cách tạo ra khe hở trên các boong động cơ phía sau của khung xe, và hiệu suất làm mát bằng không khí đã được thúc đẩy mạnh mẽ bằng cách thêm một thiết bị nước làm mát động cơ, như 1 vòi phun nước. Một loại đèn mới thay thế các đèn pha ban đầu, và cổng tín hiệu trên tháp pháo đã được gỡ bỏ.[31] Ngày 19 tháng 3 năm 1943, Panzer IV với giáp bọc Schürzen trên các cạnh của nó và tháp pháo được trưng bày.[32]. Vào tháng 4 năm 1943, KwK 40 L/43 được thay thế bởi pháo 75 mm (2.95 in) KwK 40 L/48, với một mõm phanh được thiết kế lại đa van đổi có hiệu quả giật được cải thiện.[33]
Phiên bản tiếp theo, Ausf. H, bắt đầu sản xuất vào tháng 4 năm 1943 với số hiệu Sd. Kfz. 161/2. Biến thể có giáp bảo vệ mặt trước được cải thiện bằng cách sản xuất nó như là một tấm thép đồng nhất dày tới 80 mm (3,15 in). Để ngăn chặn mìn chống tăng, Đức lo ngại sẽ được Đồng Minh sử dụng với số lượng lớn, nên đã dán Zimmerit đã được bổ sung cho tất cả các bề mặt thẳng đứng của giáp xe tăng.[34] Giáp hông của xe và tháp pháo được bảo vệ bởi việc bổ sung 5 mm thép (0,20 in), tới 8 mm (0,31 in).[35][36] Lỗ trên nóc, được thiết kế để sử dụng Nahverteidigungswaffe, được đậy một tấm thép tròn do thiếu vũ khí này.[37] Những sửa đổi này có nghĩa là trọng lượng của xe tăng nhảy vọt lên 25 tấn, làm giảm giảm tốc độ của nó,[34] tình hình không được cải thiện bởi các quyết định thông qua sử dụng bộ truyền tải SSG 77 Panzer III, kém hơn so với mô hình trước đó Panzer IV.[35]
Mặc dù giải quyết các vấn đề tính di động được giới thiệu bởi các mô hình trước đó, phiên bản sản xuất cuối cùng của Panzer IV là Ausf-J, được coi là đi ngược từ các Ausf-H. Do sự cần thiết để thay thế tổn thất nặng nề, phiên bản này đã được đơn giản hóa rất nhiều để tăng tốc độ sản xuất.[38] Máy phát điện để quay tháp pháo của xe tăng đã được gỡ bỏ, do đó, tháp pháo chỉ có thể được quay bằng tay. Không gian đã được sau đó được sử dụng cho việc cài đặt của một bồn chứa nhiên liệu phụ 200 lít (44 gallon); khiến phạm vi hoạt động do đó tăng lên tới 320 km (198,84 dặm),[39] Súng ngắn và ống quan sát trong tháp pháo đã bị gỡ bỏ, và bộ tản nhiệt của động cơ đã được đơn giản hóa bằng cách thay đổi các bên nghiêng bên thẳng.[37] Ngoài ra, ống khói trụ được thay thế bởi hai ống khói giảm âm. Đến cuối năm 1944, lớp bảo vệ chống mìn Zimmerit đã không còn được áp dụng cho các xe bọc thép của Đức, và giáp phụ Panzer IV đã được thay thế bằng giáp lồng thép. Các biện pháp này đã làm tốc độ sản xuất tăng lên.[40]
Trong một nỗ lực để tăng cường hỏa lực của Panzer IV, một nỗ lực được thực hiện để kết hợp tháp pháo mang pháo 75 mm (2.95 in) L/70 của Panther để thay cho Panzer IV. Điều này đã không thành công, và các nhà thiết kế khẳng định rằng khung tăng của Panzer IV đạt đến giới hạn nâng cấp cả về trọng lượng và thể tích, nó không thể mang được các khẩu pháo mạnh hơn nữa.[38]
Sản xuất
sửaNăm | Số lượng sản xuất | Biến thể (Ausführung hay Ausf.) |
---|---|---|
1937–1939 | 262 | A – D |
1940 | 278-386[42] | E[43] |
1941 | 467-769[44] | E, F1, F2, G[45] |
1942 | est. 880 | G |
1943 | 3,013 | G, H |
1944 | 3,125 | J |
1945 | est. 435 | J |
Tổng cộng | 9,870[46] | A - J |
Panzer IV được dự định ban đầu chỉ được sử dụng trên một quy mô hạn chế, vì vậy ban đầu Krupp là nhà sản xuất duy nhất của nó. Trước cuộc tấn công Ba Lan, chỉ có 262 Panzer IV đã được sản xuất: 35 Ausf. A, 42 Ausf. B, 140 Ausf. C và 45 Ausf. D.[47] Sau khi xâm lược Ba Lan, Đức quyết định thông qua rằng Panzer IV là trụ cột của sư đoàn thiết giáp của Đức, sản xuất đã được mở rộng nhà máy Nibelungenwerke (Steyr-Daimler-Puch quản lý) tại Áo. Ausf. E đã được giới thiệu, với 223 xe tăng chuyển giao cho quân đội Đức.[48] Năm 1941, 462 Panzer IV Ausf. F đã được lắp ráp, và nâng cấp lên Ausf. F2.[49] Tổng sản lượng hàng năm đã tăng gấp bốn lần kể từ khi bắt đầu cuộc chiến.[50]
Sau khi phiên bản cuối cùng của Panzer IV xuất hiện, một nhà máy sản xuất thứ ba là Vomag (nằm ở thành phố Plauen), bắt đầu lắp ráp. Năm 1941 trung bình 39 xe tăng mỗi tháng được sản xuất, và tăng lên 83 chiếc vào năm 1942, 252 chiếc trong năm 1943, và 300 chiếc trong năm 1944. Tuy nhiên, vào tháng 12 năm 1943, một số nhà máy của Krupp đã chuyển sang sản xuất Sturmgeschütz IV, và vào mùa xuân năm 1944 các nhà máy Vomag bắt đầu sản xuất Jagdpanzer IV, để cho Nibelungenwerke là nhà máy duy nhất lắp ráp Panzer IV.[50] Với việc ngành công nghiệp Đức chịu các cuộc không kích và các chiến dịch tấn công mặt đất của Đồng Minh trong tháng 10 năm 1944 nên nhà máy Nibelungenwerke đã bị hư hại trong một cuộc đột kích ném bom vào tháng ba và tháng 4 năm 1945 mức độ sản xuất đã giảm xuống trước năm 1942, với chỉ có khoảng 55 xe tăng một tháng hoàn thành dây chuyền lắp ráp.[51]
Chi phí
sửaMột vài nguồn của Đồng Minh tính rằng Panzer IV Ausf-G có giá khoảng 103.462 RM. Mức giá này ở mức trung bình so với mức giá của các loại xe tăng Đức khác: 96.163 RM của Panzer III Ausf-N, 82.500 RM của StuG-III, 117.100 RM của xe tăng Panther, 250.800 RM của Tiger I và 321.500 RM của Tiger II. Các số liệu chi phí trên không kể giá thành vũ khí, kính ngắm và bộ điện đàm[52][53][54]
Nếu tính cả chi phí cho vũ khí, kính ngắm và bộ điện đàm thì mỗi chiếc Panzer IV Ausf-F2 có giá thành là 115.962 RM, và mỗi chiếc Panzer IV Ausf-G có giá thành là 125.000 RM[55] (125.000 RM tương đương với 460.500 EUR thời giá năm 2018).
Xuất khẩu
sửaPanzer IV là xe tăng được xuất khẩu nhiều nhất của quân Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai.[56] Vào năm 1942 Đức cung cấp 11 xe tăng cho Romania và 32 chiếc cho Hungary, nhiều chiếc trong số đó bị mất ở mặt trận phía Đông vào cuối năm 1942 dến đầu năm 1943.[57] Romania đã nhận khoảng 120 chiếc Panzer IV gồm nhiều biến thể cho đến cuối cuộc chiến.[58] Còn Bulgaria, được Đức cung cấp 46 chiếc[59] hay 91 chiếc[60] Panzer IV, và cung cấp cho Ý 12 xe tăng để tạo thành hạt nhân của một bộ phận bọc thép mới. Chúng được sử dụng để đào tạo kíp lái Ý trong khi nhà độc tài Ý Benito Mussolini đã bị lật đổ, nhưng đã được tái chiếm bởi Đức trong thời gian chiếm đóng Ý vào giữa năm 1943.[59]
Chính phủ Tây Ban Nha kiến nghị cung cấp 100 Panzer IV vào tháng 3 năm 1943, nhưng chỉ có 20 chiếc được giao, vào tháng 12.[61] Phần Lan mua 30 chiếc, nhưng chỉ nhận được 15 chiếc Panzer IV vào năm 1942, cúng năm đó Phần Lan cũng đã mua đợt thứ hai với số lượng 62 chiếc[59] hay 72 chiếc[60] để gửi tới Hungary (khoảng 20 chiếc trong số đó được chuyển sang bù thiệt hại Đức).[60] tổng cộng có khoảng 297 chiếc Panzer IV được cung cấp cho đồng minh của Đức.[62]
Lược sử chiến đấu
sửaPanzer IV là loại xe tăng duy nhất của Đức được sản xuất và chiến đấu trong suốt chiến tranh thể giới thứ hai,[63][64] và theo các tính toán trong cuộc chiến thì Panzer IV chiếm khoảng 30% trong tổng số xe tăng của Wehrmacht.[65] Mặc dù chỉ bắt đầu phục vụ vào đầu năm 1939, trong thời gian chiếm đóng Tiệp Khắc,[66] tại thời điểm bắt đầu của cuộc chiến thì phần lớn các xe tăng hạng nhẹ của Đức đã lỗi thời như Panzer I và Panzer II.[67] Panzer I đặc biệt đã được chứng minh rằng kém hơn so với xe tăng Liên Xô, chẳng hạn như T-26, trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha.[68]
Mặt trận phía Tây và Bắc Phi (1939–1942)
sửaKhi Đức xâm lược Ba Lan vào ngày 01 tháng 9 năm 1939, quân đoàn thiết giáp của Đức bao gồm 1.445 Panzer I, 1223 Panzer II, 98 Panzer III và 211 Panzer IV. Như vậy, các xe tăng hạng trung hiện đại Panzer III và Panzer IV chỉ chiếm ít hơn 10% sức mạnh thiết giáp của Đức.[69] Sư đoàn Panzer I đã có một sự cân bằng tương đương của các loại, với 17 Panzer I, 18 Panzer II, 28 Panzer III, và 14 Panzer IV mỗi tiểu đoàn. Các sư đoàn thiết giáp còn lại chủ yếu là các xe tăng hạng nhẹ đã lỗi thời, trang bị chúng với 34 Panzer I, 33 Panzer II, 5 Panzer III, và 6 Panzer IV mỗi tiểu đoàn.[70] Mặc dù quân đội Ba Lan chỉ sở hữu ít hơn 200 xe tăng có khả năng bắn xuyên giáp các xe tăng hạng nhẹ của Đức, pháo chống tăng Ba Lan đã chứng tỏ là một mối đe dọa, củng cố niềm tin của Đức vào giá trị của sự hỗ trợ chặt chẽ của xe tăng hạng trung mới như Panzer IV.[71]
Mặc dù sản xuất ngày càng tăng của các xe Panzer III và IV trước khi diễn ra cuộc xâm lược của Đức vào Pháp ngày 10 tháng 5 năm 1940, phần lớn các xe tăng Đức trong chiến dịch này vẫn còn là các loại xe tăng hạng nhẹ. Theo Heinz Guderian, Wehrmacht (Lục quân Đức) xâm lược Pháp với 523 chiếc Panzer I, 955 chiếc Panzer II, 349 chiếc Panzer III, 278 chiếc Panzer IV, 106 chiếc Panzer 35(t) và 228 chiếc Panzer 38(t).[72] Thông qua việc sử dụng sóng vô tuyến chiến thuật[73] và chiến thuật vượt trội, người Đức đã có thể qua mặt và đánh bại lực lượng thiết giáp của Pháp và Anh.[74] Tuy nhiên, Panzer IV được trang bị với pháo xe tăng KwK 37 75 mm L/24 (2.95 in) cho thấy nó khó khăn để xuyên giáp các xe tăng Pháp như Somua S35 và Char B1.[75] Somua S35 có giáp dày tối đa là 55 mm (2,17 in),[76] trong khi KwK 37 L/24 chỉ có thể xuyên qua lớp thép dày 43 mm (1,69 in) tại khoảng cách 700 m (2.296,59 ft).[16] Tương tự như vậy, xe tăng Matilda Mk II của Anh cũng có giáp dày hơn khả năng xuyên của pháo 75 mm L/24, với ít nhất khoảng 70 mm (2,76 in) ở mặt trước và tháp pháo, và trung bình 65 mm ở mặt bên.[77]
Mặc dù Panzer IV đã được triển khai đến Bắc Phi với quân đoàn Afrika Korps của Đức, cho đến khi các biến thể mang pháo mạnh hơn còn bắt đầu sản xuất, Panzer IV yếu hơn Panzer III trong các trận đấu xe tăng.[78] Cả hai loại Panzer III và IV đều có khó khăn trong việc xuyên giáp dày của xe tăng Anh Matilda II, trong khi pháo của Matilda là 40 mm QF 2 có thể hạ gục xe tăng Đức, bất lợi chính của Matilda là tốc độ thấp.[79] Đến tháng 8 năm 1942, Rommel chỉ nhận được 27 Panzer IV Ausf. F2, được trang bị với pháo 75mm L/43, triển khai mũi nhọn chiến dịch tấn công bọc thép của ông.[79] Pháo này có thể xuyên thủng giáp của tất cả các xe tăng Mỹ và Anh trên chiến trường ở khoảng cách lên đến 1.500 m (4.900 ft).[80] Mặc dù đã có các xe tăng mới chuyển đến Bắc Phi giữa tháng tám và tháng 10 năm 1942, con số của chúng là không đáng kể so với số lượng trang bị thiết giáp được vận chuyển tới của quân đội Anh[81]
Panzer IV cũng đã tham gia vào cuộc xâm lược Nam Tư và cuộc xâm lược Hy Lạp vào đầu năm 1941.[82]
Mặt trận Xô-Đức (1941–1945)
sửaVới việc phát động Chiến dịch Barbarossa ngày 22 tháng 6 năm 1941, quân Đức có trong lực lượng của mình gần 500 chiếc Panzer IV thuộc nhiều phiên bản, đều được trang bị pháo nòng ngắn 75 mm L/24. Loại pháo này chủ yếu dùng để phá công sự nhưng cũng có thể hạ gục các loại xe tăng hạng nhẹ của Liên Xô như BT-7, T-26... khá dễ dàng. Giáp trước dày 50mm của Panzer IV Ausf-F cũng đủ để chống lại pháo 45mm trên các loại tăng hạng nhẹ này.
Sự xuất hiện bất ngờ của các xe tăng KV-1 và T-34 của Liên Xô khiến Panzer IV bị thất thế. Khẩu pháo 75mm L/24 nòng ngắn của Panzer IV Ausf-F không thể xuyên được giáp trước của T-34 và KV-1, trong khi pháo 76mm L/42 của T-34 lại xuyên thủng được giáp trước của Panzer IV Ausf-F từ cự ly lên tới 1.200 mét. Khi gặp phải T-34, nếu đấu trực diện thì Panzer IV Ausf-F gần như không có cơ hội thắng, nó thường phải tìm cách lẻn tới để bắn vào hông của T-34, hoặc tệ hơn là phải bỏ chạy rồi gọi các khẩu đội pháo chống tăng cỡ 88mm tới ứng cứu.
Điều này buộc Đức phải nâng cấp pháo của Panzer IV lên khẩu 75 mm (2.95 in) L/43. Cỡ nòng giữ nguyên nhưng chiều dài nòng đã tăng rất nhiều để bắn đạn xuyên giáp động năng với sơ tốc cao, thích hợp cho việc chống lại xe tăng đối phương. Khi dùng loại pháo này, nó có thể bắn xuyên giáp trước tháp pháo T-34/76 ở khoảng cách lên đến 1.200 m (3.900 ft) ở góc đối diện[83] Pháo 75 mm (2,95 in) KwK 40 L/43 trên Panzer IV có thể xuyên giáp T-34 ở bất kỳ vị trí nào ở khoảng cách từ 1.000 m (3.300 ft) và đối đa đến 1.600 m (5.200 ft).[84] Lô hàng biến thể đầu tiên có gắn những khẩu pháo 75mm mới, được định danh là Ausf. F2, bắt đầu được sản xuất vào mùa xuân năm 1942, và trong cuộc tấn công mùa hè 1942 đã có khoảng 135 Panzer IV với pháo L/43. Vào thời điểm đó, những xe tăng Panzer IV đã có thể bắn xuyên được giáp trước xe tăng Liên Xô như T-34, KV-1.[85] Nó đóng một vai trò quan trọng trong các sự kiện xảy ra giữa tháng 6 năm 1942 tới tháng 3 năm 1943,[86] và Panzer IV trở thành trụ cột chính của các sư đoàn xe tăng Đức.[87]
Vào cuối tháng 9 năm 1942, Tiger I đã xuất hiện nhưng chưa đủ nhiều để gây ảnh hưởng cũng như nó bị các vấn đề nghiêm trọng về bánh răng, trong khi loại xe tăng Panther đã không được gửi các đơn vị Đức ở Liên Xô cho đến tháng 5 năm 1943.[88] Mức độ phụ thuộc Đức vào Panzer IV trong thời gian này được phản ánh bởi mất mát của chúng, 502 chiếc đã bị phá hủy trên mặt trận phía Đông vào năm 1942.[89]
Panzer IV tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động năm 1943, bao gồm cả trận Kursk. Loại xe tăng mới hơn như Panther gặp vấn đề độ tin cậy nên hiệu quả chiến đấu của nó bị hạn chế,[90] Có 841 chiếc Panzer IV đã tham gia vào trận chiến.[91] Trong suốt năm 1943, quân đội Đức bị mất 2.352 Panzer IV tại Mặt trận phía Đông;[92] một số sư đoàn thiết giáp đã bị giảm xuống còn 12-18 xe tăng vào cuối năm.[87] Năm 1944, có thêm 2.643 chiếc Panzer IV đã bị phá hủy và thiệt hại đó đang trở nên ngày càng khó khăn để thay thế.[93]
Từ giữa năm 1944, Panzer IV đã bị áp đảo bởi phiên bản nâng cấp của T-34 là T-34-85 với trang bị pháo 85 mm (3,35 in) và giáp trước tháp pháo dày hơn 90mm vát nghiêng. Kể cả Panzer IV các phiên bản nâng cấp mới nhất cũng yếu hơn T-34-85 cả về hỏa lực và vỏ giáp. Những mô hình xe tăng hạng nặng của Liên Xô như xe tăng IS-2 mang pháo 122 mm (4,80 in) thì có thể dễ dàng tiêu diệt Panzer IV ở cự ly rất xa[3] Tuy nhiên, do sự thiếu hụt của xe tăng Panther để thay thế, Panzer IV tiếp tục là nòng cốt của các sư đoàn thiết giáp của Đức, bao gồm cả các đơn vị ưu tú như Quân đoàn Panzer SS II, suốt năm 1944.[4]
Vào tháng 1 năm 1945, 287 chiếc Panzer IV đã bị mất trên mặt trận phía Đông. Người ta ước tính rằng khi chiến đấu chống lại các lực lượng Liên Xô thì khoảng 6.153 chiếc Panzer IV bị phá hủy, chiếm khoảng 75% số Panzer IV của Đức bị phá hủy trong suốt thời gian chiến tranh.[94]
Mặt trận phía Tây (1944–1945)
sửaPanzer IV chiếm khoảng một nửa xe tăng Đức có trên Mặt trận phía Tây trước khi diễn ra cuộc đổ bộ của Đồng minh của Normandy vào ngày 06 tháng 6 năm 1944.[95] Hầu hết 11 sư đoàn thiết giáp Đức đóng gần vùng Normandy ban đầu đều gồm có một trung đoàn thiết giáp tiểu đoàn Panzer IV và Xe tăng con báo, tổng cộng khoảng 160 xe tăng, mặc dù các đơn vị xe tăng Waffen-SS là lớn hơn và được trang bị tốt hơn Heer.[96][97]
Nâng cấp thường xuyên Panzer IV đã giúp duy trì danh tiếng của nó như là một đối thủ ghê gớm.[95] Mặc dù có ưu thế áp đảo, Đồng Minh đã gặp rất nhiều khó khăn khi đánh chiếm vùng nông thôn phía Bắc Bocage, xe tăng Đức và súng chống tăng gây ra tổn thất nặng nề cho xe thiết giáp Đồng minh trong chiến dịch Normandy. Tuy nhiên Panzer IV, Panther và các loại xe bọc thép khác cũng bị tổn thất nặng tại Bocage bởi bộ binh Đồng Minh trang bị vũ khí chống tăng cá nhân, pháo tự hành chống tăng và súng chống tăng, cũng như máy bay ném bom chiến đấu ở khắp mọi nơi.[98] Địa hình nhiều bụi cây, hàng rào nông trại tại đây là không phù hợp với xe tăng, nhiều chiếc Panzer IV Ausf-H đã bị bắn hỏng do bị bộ binh Đồng Minh phục kích bắn vào hông xe với những vũ khí chống tăng như PIAT của Anh hoặc súng bazooka của Mỹ. Tất cả các đơn vị thiết giáp của Đức đã vô cùng "bực tức" vì giáp phụ bị xé rời trong quá trình di chuyển qua các vườn cây ăn trái, và hàng rào dày đặc.[95]
Quân Đồng minh cũng đã được phát triển chương trình cải tiến nguy hiểm của riêng của họ. Quân Mỹ thiết kế được sử dụng rộng rãi phương tiện xe tăng M4 Sherman, loại này có máy móc đáng tin cậy nhưng giáp mỏng và pháo không đủ mạnh.[99] Chống lại các phiên bản cũ của Panzer IV, M4 Sherman có thể đủ sức, nhưng với khẩu pháo M3 75 mm của nó thì không thể chống lại các phiên bản cuối của Panzer IV (và không thể bắn thủng giáp phía trước của xe tăng Panther và Tiger tại bất cứ phạm vi nào).[100] Các phiên bản cuối Panzer IV có 80 mm (3,15) giáp trước, có thể dễ dàng chịu được pháo 75 mm (2.95 in) trên Sherman ở phạm vi chiến đấu bình thường,[101] mặc dù hai bên hông xe vẫn còn dễ bị tổn thương.
Người Anh nâng cấp M4 Sherman với pháo chống tăng QF 17, kết quả là phiên bản Sherman Firefly;[102] cho phép loại xe tăng này có khả năng đối phó với tất cả các xe tăng Đức lúc đó trong phạm vi chiến đấu bình thường, nhưng số lượng của chúng rất ít (khoảng 300 chiếc) có trong thời gian cho cuộc tấn công Normandy.[99] Xe tăng Cruiser Mk VIII Challenger của Anh không thể tham gia vào cuộc đổ bộ và phải chờ tàu đổ bộ. Phải cho đến tháng 7 năm 1944, khi mà Sherman của Mỹ được trang bị với pháo M1 76mm (3 inch) L/53, loại xe này mới đạt mức cân bằng hỏa lực với Panzer IV.[103][104]
Tuy nhiên, bất chấp sự vượt trội về chất lượng xe tăng, quân Đức bị áp đảo về quân số cũng như bị không quân Đồng Minh tấn công liên tục. Ngày 29 Tháng 8 năm 1944, các binh sĩ còn lại thuộc Quân đoàn Panzer số 5 và số 7 đã bắt đầu rút lui về phía Đức, gây nên thảm họa kép đồi với Đức là trận Pocket Falaise và việc vượt sông Seine của quân Đồng Minh, và cái giá mà các đơn vị thiết giáp Wehrmacht phải trả là rất lớn. Trong số 2.300 xe tăng và pháo tự hành của Đức tham chiến tại Normandy (bao gồm cả khoảng 750 Panzer IV[105]), khoảng 2.200 xe đã bị mất hoặc bị hỏng nặng.[106] Thống chế Walter Model gửi báo cáo cho Hitler là những sư đoàn xe tăng còn lại của ông, trung bình chỉ còn khoảng 5-6 xe trong mỗi sư đoàn.[106]
Trong mùa đông 1944-1945, Panzer IV là một trong những chiếc xe tăng được sử dụng rộng rãi nhất trong cuộc tấn công Ardennes nhưng bị thiệt hại nặng nề, do quân Đức bị thiếu nguồn cung cấp nhiên liệu làm cho hoạt động của xe tăng Đức tại mặt trận phía Tây bị hạn chế và suy giảm đáng kể.[107] Panzer IV tham chiến là những chiếc sống sót sau trận chiến ở Pháp giữa tháng 6 và tháng 9 năm 1944, với khoảng 260 Panzer IV Ausf. J phát hành là quân tiếp viện.[105]
Các nước sử dụng khác
sửaTrong những năm 1960, Syria đã nhận được một số Panzer IV từ Pháp, và thay thế súng máy ở tháp pháo bằng 1 súng 12,7 mm do Liên Xô sản xuất (0,50.Chúng được sử dụng để tấn công các khu định cư Israel ở Cao nguyên Golan, và chống lại xe tăng Centurion của Israel.[107] Syria cũng đã nhận được 17 chiếc Panzer IV từ Tây Ban Nha, những chiếc này đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Sáu ngày năm 1967.[108]
Phần Lan đã mua 15 mới Panzer IV Ausf J trong năm 1944, với giá 5.000.000 markka Phần Lan mỗi chiếc[109] (khoảng hai lần giá sản xuất). Các xe tăng đến quá muộn để chống lại Liên Xô, nhưng thay vào đó nó được sử dụng chống lại Đức trong Chiến tranh Lapland. Sau chiến tranh, họ đã sử dụng nó làm xe tăng huấn luyện, và một chiếc đóng giả làm xe tăng KV-1 của Liên Xô trong bộ phim The Unknown Soldier vào năm 1955.
Sau năm 1945, Bulgaria kết hợp Panzer IV còn lại sau chiến tranh trong các lô cốt phòng phủ trên biên giới với Thổ Nhĩ Kỳ, cùng với T-34. Hàng phòng ngự được biết đến như là "Line Krali Marko", vẫn được sử dụng cho đến khi nhà nước cộng sản chủ nghĩa sụp đổ vào năm 1989.
Hầu hết các xe Panzer IV mà Romania đã nhận được đã bị mất trong năm 1944 và năm 1945 trong chiến đấu. Những xe tăng còn tồn kho của quân đội, đã được sử dụng bởi trung đoàn thiết giáp số 2. Đến ngày 09 tháng 5 năm 1945 chỉ có hai chiếc Panzer IV còn lại. Romania nhận được thêm 50 xe tăng Panzer IV từ Hồng quân sau khi kết thúc chiến tranh. Các xe tăng này gồm nhiều phiên bản khác nhau và trang bị nghèo nàn.[58] Nhiều chiếc trong số đó bị mất các bộ phận và giáp phụ. Các xe tăng Panzer IV vẫn phục vụ cho đến năm 1950, khi quân đội đã quyết định chỉ sử dụng thiết bị của Liên Xô. Đến năm 1954, tất cả các xe tăng Đức đã bị loại bỏ.
Biến thể
sửaĐể phù hợp với triết lý thiết kế thời chiến của Đức gắn một khẩu súng chống tăng hiện có trên một vị trí thuận lợi trên một loại khung tăng nào đó, một số pháo tự hành chống tăng và súng bộ binh hỗ trợ đã được thiết kế trên thân tăng Panzer IV. Cả Jagdpanzer IV, ban đầu được trang bị với các pháo 75 mm (2.95) L/48,[110] và Krupp sản xuất Sturmgeschütz IV, gắn trên thân của Panzer IV,[111] tỏ ra có hiệu quả cao trong việc phòng thủ. Rẻ hơn và nhanh hơn hơn so với xe tăng, nhưng khá bất lợi là góc quay của pháo rất hạn chế. Khoảng 1.980 chiếc Jagdpanzer IV [112] và 1.140 chiếc Sturmgeschütz IV[113] được sản xuất. Một phiên bản pháo tự hành chống tăng, Jagdpanzer IV/70, sử dụng pháo 75 mm L/70 giống như của xe tăng Panther cũng được sản xuất[114][115]
Một biến thể của Panzer IV là xe tăng chỉ huy Panzerbefehlswagen IV (Pz.Bef.Wg. IV). Chuyển đổi này kéo theo việc lắp đặt thêm bộ phát thanh, lắp giá đỡ, máy biến áp, hộp tiếp nối, dây điện, ăng ten và một máy phát điện phụ trợ. Để nhường chỗ cho các thiết bị mới, kho đạn dược đã được giảm từ 87 xuống 72 viên đạn. Chiếc xe có thể phối hợp với lực lượng thiết giáp, bộ binh gần đó, hoặc thậm chí máy bay. Mười bảy chiếc Panzerbefehlswagen được chuyển đổi từ khung xe Ausf. J, trong khi khác 88 chiếc khác dựa trên khung gầm nâng cấp. [116]
Panzerbeobachtungswagen IV (Pz.Beob.Wg. IV) là một xe quan sát được lắp dặt trên khung gầm Panzer IV. Được trang bị được thiết bị vô tuyến điện và máy phát điện, được đặt ở góc bên trái phía sau của khoang chiến đấu. Panzerbeobachtungswagens làm việc với các loại pháo tự hành Wespe và Hummel.[117]
Cũng dựa trên khung gầm Panzer IV là pháo tự hành xung kích hỗ trợ bộ binh Sturmpanzer IV Brummbär 150 mm (5,91 in) hỗ trợ bộ binh, súng tự hành. Những chiếc xe này chủ yếu được cấp đến bốn đơn vị Sturmpanzer (số 216, 217, 218 và 219) và được sử dụng trong trận Vòng cung Kursk và ở Ý vào năm 1943. Hai phiên bản riêng biệt của Sturmpanzer IV còn, mà không có một khẩu súng máy trong vật che đạn của pháo thủ nhưng có một khảu súng máy lắp gần pháo chính.[118] Hơn nữa, một khẩu súng pháo 105-mm (4,13 in) đã được gắn trong một tháp pháo thử nghiệm trên một khung gầm Panzer IV. Biến thể này được gọi là Heuschrecke, hoặc Grasshopper.[119] Một nguyên mẫu 105 mm pháo binh / chống tăng là 10,5 cm K (gp.Sfl) có biệt danh Dicker Max.
Bốn loại pháo tự hành phòng không đã được thiết kế trên thân tăng Panzer IV. Flakpanzer IV Möbelwagen được trang bị một khẩu pháo phòng không 37 mm (1.46 in), 240 chiếc được chế tạo từ năm 1944 và 1945. Trong cuối năm 1944 một loại Flakpanzer mới, Wirbelwind, được thiết kế bọc giáp, để bảo vệ kíp lái và súng,tháp quay, được trang bị với hệ thống phòng không 20mm Flakvierling, ít nhất 100 chiếc được sản xuất. Sáu mươi năm tương tự như đã được sản xuất, tên là Ostwind, nhưng với một khẩu pháo phòng không 37 mm (1.46 in). Chiếc xe này được thiết kế thay thế Wirbelwind. Mô hình cuối cùng là Flakpanzer IV Kugelblitz, trong đó chỉ có năm được sản xuất. Chiếc xe có một tháp pháo được trang bị các khẩu pháo phòng không đôi 30 mm (1,18 in).[120]
Mặc dù không phải là một sửa đổi trực tiếp của Panzer IV, chỉ có một số thành phần của nó kết hợp với các bộ phận từ Panzer III, đã được sử dụng để làm khung cho loại pháo tự hành dược sử dụng rộng rãi trong chiến tranh Geschützwagen III/ IV. Khung này là cơ sở của pháo Hummel, trong đó có 666 chiếc đã được sản xuất, và cũng như pháo chống tăng 88 mm (3,46 in)Nashorn, với 473 chiếc được sản xuất.[121] Để tiếp tế cho pháo tự hành trong lĩnh vực này, loại xe vận chuyển đạn dược được sản xuất trên khung Geschützwagen III / IV.[66]
Một biến thể hiếm gặp khác là xe sửa chữa Bergepanzer IV. Một số đã được chuyển đổi[122], 21 chiếc đã được chuyển đổi từ thân tăng đang sửa chữa từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 1 năm 1945. Việc chuyển đổi gồm loại bỏ tháp pháo và thêm một tấm ván bằng gỗ bao gồm với cửa nắp tại nơi dặt tháp pháo trước đó. Ngoài ra cần kéo và các thanh kéo cũng được trang bị.[123]
Xem thêm
sửaWikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Panzer IV. |
Liên kết ngoài
sửaChú thích
sửa- ^ Zetterling, Niklas (2000). Kursk 1943: A Statistical Analysis. London: Frank Cass. tr. 61. ISBN 978-0-7146-5052-4.
- ^ Conners, Chris (ngày 4 tháng 12 năm 2002). “Panzerkampfwagen IV Ausfuehrung H1-6,10,15-16”. The AFV Database. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
- ^ a b Perrett (1999), p. 40
- ^ a b Reynolds (2002), p. 5
- ^ Spielberger (1972), p. 69
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 5
- ^ a b Perrett (1999), p. 4
- ^ Jentz (1997), p. 1
- ^ a b c d e Spielberger (1972), p. 70
- ^ a b c d Perrett (1999), p. 5
- ^ Simpkin (1979), p. 106
- ^ de Mazarrasa (1994), p. 46
- ^ Perrett (1999), p. 5; Caballero & Molina (2006), p. 6
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 6
- ^ a b Caballero & Molina (2006), p. 7
- ^ a b Doyle & Jentz (2001), p. 4
- ^ a b Perrett (1999), p. 6; Caballero & Molina (2006), p. 7
- ^ Perrett (1999), p. 6; Caballero & Molina (2006), p. 6
- ^ a b c Perrett (1999), p. 6
- ^ Doyle & Jentz (2001), p. 5
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 31
- ^ a b Spielberger (1972), p. 71
- ^ Spielberger (1993)
- ^ Perrett (1999), p.7
- ^ Doyle & Jentz (2001), pp. 6–7
- ^ Doyle & Jentz (2001), p. 7
- ^ Spielberger (1972), p. 73
- ^ Doyle & Jentz (2001), p. 8
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 38
- ^ Spielberger (1993), p. 59
- ^ Doyle & Jentz (2001), pp. 11–12
- ^ Walter J. Spielberger (1993), P63
- ^ Doyle & Jentz (2001), p. 12
- ^ a b Caballero & Molina (2006), p. 44
- ^ a b Perrett (1999), p. 8
- ^ Doyle & Jentz (2001), p. 13
- ^ a b Doyle & Jentz (2001), p. 14
- ^ a b Perrett (1999), p. 9
- ^ Caballero & Molina (2006), pp. 53–54
- ^ Doyle & Jentz (2001), p. 15
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 36; Doyle & Jentz (2001), p. 16; Spielberger (1972), p. 72
- ^ Cabellero & Moline (2006), p. 4, suggest only 278 manufactured in 1940
- ^ Entered service December 1939; Perrett (1999), p. 6
- ^ 769 per Spielberger (1972), p. 72; Cabellero & Moline (2006), p. 4, suggest 467 Panzer IVs were manufactured in 1941
- ^ Ausf. F entered production during the spring of 1941 and Ausf. G entered service sometime later the same year; Perrett (1999), p. 8
- ^ McCarthy & Syron (2002) suggest that 8,600 were manufactured total (p. 36)
- ^ Perrett (1999), pp. 5–6
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 33
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 36
- ^ a b Spielberger (1972), p. 72
- ^ Doyle & Jentz (2001), p. 16
- ^ Zetterling 2000, các trang 61, 64–65, 70–71. Tài liệu viết và cung cấp bởi: Pawlas, Karl R. Datenblatter fur Heeres-Waffen, Fahrzeuge und Gerat, (tiếng Đức), Publizistisches Archiv fur Militar- und Waffenwesen, Nurnberg, in năm 1976, các trang 143, 148, 150.
- ^ Spielberger 1993, trang 23
- ^ “Product Prices”.
- ^ “Armored Champion”. Google Books. Truy cập 6 tháng 9 năm 2024.
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 63
- ^ Caballero & Molina (2006), pp. 63–66
- ^ a b Scafes and Serbanescu 2005, p.78
- ^ a b c Caballero & Molina (2006), p. 66
- ^ a b c Doyle & Jentz (2001), p. 41; Perrett (1999), p. 44, claims Bulgaria received 88 Panzer IVs.
- ^ Caballero & Molina (2006), pp. 76–82
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 67
- ^ McCarthy & Syron (2002), p. 36
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 4
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 3
- ^ a b Spielberger (1972), p. 82
- ^ McCarthy & Syron (2002), p. 51
- ^ McCarthy & Syron (2002), p. 34
- ^ Perrett (1999), p. 24
- ^ Perrett (1998), p. 37
- ^ Perrett (1999), p. 33
- ^ Guderian (1996), p. 472
- ^ McCarthy & Syron (2002), p. 72
- ^ McCarthy & Syron (2002), p. 73
- ^ Doyle & Jentz (2001), pp. 4–5
- ^ Crawford (2000), p. 4
- ^ Crawford (2000), p. 50
- ^ Perrett (1999), p. 34
- ^ a b Ormeño (2007), p. 48
- ^ Doyle & Jentz (2001), p. 21
- ^ Doyle & Jentz (2001), p. 23
- ^ Perrett (1999), pp. 34–35
- ^ Jentz (1996), p. 243
- ^ Bird & Livingston (2001), p. 25
- ^ Doyle & Jentz (2001), p. 33
- ^ Doyle & Jentz (2001), p. 35–36
- ^ a b Spielberger (1972), p. 87
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 42
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 39
- ^ Perrett (1999), p. 39
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 47
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 48
- ^ Caballero & Molina (2006), p. 51
- ^ Caballero & Molina (2006), pp. 59–62
- ^ a b c Hastings (1999), p. 133
- ^ Hastings (1999), p. 413
- ^ Forty (2000), p. 88
- ^ Perrett (1999), p. 43
- ^ a b Hastings (1999), p. 225
- ^ Hastings (1999), pp. 225–227
- ^ Jentz & Doyle (2001), p. 176
- ^ Fletcher (2008), pp. 5–8
- ^ Fletcher (2008), p. 43
- ^ Hastings (1999), p. 221
- ^ a b Forty (2000), p. 92
- ^ a b Wilmott (1997), p. 434
- ^ a b Perrett (1999), p. 44
- ^ de Mazarrasa (1994), p. 50
- ^ “Panzer IV”. www.legionsgames.com. Legions Hobbies and Games. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2011.
- ^ Scheibert (1991), p. 38
- ^ Scheibert (1991), p. 37
- ^ Parada, George. “Jagdpanzer IV”. achtungpanzer.com. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 7 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2008.
- ^ Parada, George. “Sturmgeschütz III / IV”. achtungpanzer.com. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2008.
- ^ Scheibert (1991), p. 44
- ^ Thomas L. Jentz & Doyle, Hilary Louis (1997). Panzer Tracts No. 9: Jagdpanzer, Jagdpanzer 38 to Jagdtiger. Darlington (MD): Darlington Productions.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
- ^ Doyle & Jentz (2001), pp. 41–42
- ^ Doyle & Jentz (2001), pp. 42–43
- ^ Scheibert (1991), pp. 32–33
- ^ Scheibert (1991). p. 43
- ^ Scheibert (1991), pp. 37–42
- ^ Spielberger (1972), pp. 81–82
- ^ New Vanguard 28, Panzerkampfwagon IV Medium Tank 1936-45, Bryan Perrett, Osprey Publishing 1999
- ^ “Trumpeter 00389 German Bergepanzer IV”. Truy cập 6 tháng 9 năm 2024.
Thư mục
sửa- Bird, Lorrin R. (2001). World War II Ballistics: Armor and Gunnery. Robert Livingston. Albany, NY: Overmatch Press.
- Caballero, Carlos; Molina, Lucas (2006). Panzer IV: El puño de la Wehrmacht (bằng tiếng Tây Ban Nha). Valladolid, Spain: AFEditores. ISBN 84-96016-81-1.
- Crawford, Steve (ngày 11 tháng 11 năm 2000). Tanks of World War II. Zenith Press. ISBN 0-7603-0936-1.
- de Mazarrasa, Javier (1994). Blindados en España 2ª Parte: La Dificil Postguerra 1939-1960 (bằng tiếng Tây Ban Nha). Valladolid, Spain: Quiron Ediciones. ISBN 84-87314-10-4.
- Doyle, Hilary (2001). Panzerkampfwagen IV Ausf. G, H and J 1942-45. Tom Jentz. Oxford, United Kingdom: Osprey. ISBN 1-84176-183-4.
- Fletcher, David (2008). Sherman Firefly. Oxford, United Kingdom: Osprey. ISBN 978-1-84603-277-6.
- Forty, George (2000). The Reich's Last Gamble: The Ardennes Offensive, December 1944. London, United Kingdom: Cassell & Co. ISBN 0-304-35802-9.
- Hastings, Max (1999). Overlord: D-Day and the Battle for Normandy 1944. London, United Kingdom: Pan Books. ISBN 0-330-39012-0.
- Jentz, Thomas (1996). Panzertruppen: The Complete Guide to the Creation & Combat Employment of Germany's Tank Force 1933-1942. Atglen, PA: Schiffer Military History. ISBN 0-88740-915-6.
- Jentz, Thomas (1997). Panzer Tracts 4: Panzerkampfwagen IV - Grosstraktor to Panzerbefehlswagen IV. Hilary Doyle. Darlington, MD: Darlington Productions.
- Jentz, Thomas (2001). Germany's Panzers in World War II: From Pz.Kpfw.I to Tiger II. Hilary Doyle. Atglen, PA: Schiffer Military History. ISBN 0-7643-1425-4.
- McCarthy, Peter (2002). Panzerkieg: The Rise and Fall of Hitler's Tank Divisions. Mike Syryon. New York City, NY: Carroll & Graf. ISBN 0-7867-1009-8.
- Ormeño, Javier (ngày 1 tháng 1 năm 2007). “Panzerkampfwagen III: El pequeño veterano de la Werhmacht”. SERGA. Madrid, Spain: Almena (45).
- Perrett, Bryan (1998). German Light Panzers 1932-42. Oxford, United Kingdom: Osprey. ISBN 1-85532-844-5.
- Perrett, Bryan (1999). Panzerkampfwagen IV medium tank: 1936 - 1945. Oxford, United Kingdom: Osprey. ISBN 978-1-85532-843-3.
- Reynolds, Michael (2002). The Sons of the Reich: II SS Panzer Corps. Havertown, PA: Casemate. ISBN 0-9711709-3-2.
- Scheibert, Horst (1991). The Panzer IV Family. West Chester, PA: Schiffer Military History. ISBN 0-88740-359-X.
- Simpkin, Richard E. (1979). Tank Warfare: An analysis of Soviet and NATO tank philosophy. London, United Kingdom: Brassey's. ISBN 0-904609-25-1.
- Spielberger, Walter (1972). PanzerKampfwagen IV. Berkshire, United Kingdom: Profile Publications Ltd.
- Spielberger, Walter (1993). Panzer IV and its variants. Atglen, PA, USA: Schiffer Military History. ISBN 0-88740-515-0.
- Wilmot, Chester (1997). The Struggle for Europe. Ware, Herts.: Wordsworth Editions Ltd. ISBN 1-85326-677-9.
- Scafes, Cornel I; Scafes, Ioan I; Serbanescu, Horia Vl (2005). Trupele Blindate din Armata Romana 1919-1947. Bucuresti: Editura Oscar Print.