Project Sekai: Colorful Stage! feat. Hatsune Miku

trò chơi âm nhạc Nhật Bản năm 2020
(Đổi hướng từ Project Sekai)

Project Sekai: Colorful Stage! feat. Hatsune Miku[a] (Nhật: プロジェクトセカイ カラフルステージ! feat.初音ミク Hepburn: Purojekuto Sekai Karafuru Sutēji! fīcharingu Hatsune Miku?) là một trò chơi điện tử trên nền tảng di động thuộc thể loại âm nhạc do Colorful Palette (một studio trực thuộc Craff Egg) phát triển và do Sega phát hành. Nội dung trò chơi xoay quanh các ca sĩ ảo và năm nhóm nhạc khác nhau với mỗi nét riêng biệt. Trò chơi được phát hành vào ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại Nhật Bản trên thiết bị AndroidiOS; phiên bản tiếng Anh được phát hành cho toàn cầu vào ngày 7 tháng 12 năm 2021.

Project Sekai: Colorful Stage! feat. Hatsune Miku
Ảnh quảng bá trò chơi, với Hatsune Miku (trái) và Hoshino Ichika thuộc nhóm Leo/need (phải)
プロジェクトセカイ カラフルステージ! feat.初音ミク
(Purojekuto Sekai Karafuru Sutēji! fīcharingu Hatsune Miku)
Thể loạiÂm nhạc, visual novel, Rhythm game
Trò chơi điện tử
Phát triểnColorful Palette, Crypton Future Media
Phát hànhSega
Game engineUnity
Ngày phát hànhNhật Bản 30 tháng 9, 2020
Đài LoanHồng KôngMa Cao 30 tháng 9, 2021
  • WW: 7 tháng 12, 2021
Hàn Quốc 20 tháng 5, 2022
Hệ điều hànhiOS, Android
Chế độChơi đơn, nhiều người chơi
Anime truyền hình
Petit Sekai
Đạo diễnMorii Kenshirou
Âm nhạcMori Shintarou
Hãng phimScooter Films
Kênh gốcTokyo MX
Phát sóng 13 tháng 1, 2022 17 tháng 3, 2022
Số tập10 (danh sách tập)
 Cổng thông tin Anime và manga

Nội dung sửa

Bối cảnh sửa

Trò chơi đặt bối cảnh tại nước Nhật thời hiện đại, xoay quanh các khu thành thị thuộc TokyoYokohama. Hatsune Miku và một số nhân vật Piapro[b] cũng xuất hiện trong câu chuyện. Các ca sĩ ảo ấy đều tồn tại ngoài thế giới thực lẫn trong "Sekai", một thế giới bí ẩn được tái tạo từ cảm xúc chân thật nhất của con người. Câu chuyện tập trung vào các nhân vật từ năm nhóm nhạc và hành trình khám phá "cảm xúc thật" của họ với sự giúp đỡ từ các ca sĩ ảo.[1] Để đặt chân vào Sekai, một người phải bật bài hát có tựa "Untitled." Bài hát này không có giai điệu cũng như lời, nó có sẵn trên thiết bị của nhân vật. Dù là điện thoại di động, tivi hay máy tính, miễn là bài hát "Untitled" vang lên, họ có thể di chuyển giữa thế giới thực và Sekai.

Cốt truyện sửa

Mỗi nhóm nhạc đều có câu chuyện riêng của họ và tập trung vào hành trình khám phá "cảm xúc thật".

  • Leo/need: Hoshino Ichika mong ước nhớ lại kỉ niệm của cô với những người bạn thuở nhỏ của cô gồm Tenma Saki, Mochizuki Honami, Hinomori Shiho để họ được gắn bó thêm một lần nữa, vì tình bạn của họ đã trở nên căng thẳng sau nhiều sự kiện đã xảy ra ở trường trung học. Cô tiến vào Sekai và gặp Miku mặc trang phục phong cách Punk Rock, Miku nói với Ichika hãy truyền tải những cảm xúc của mình cho những người bạn của cô. Ichika và những người bạn của cô đã thành lập một ban nhạc để khôi phục lại tình bạn của họ và khám phá những kỷ niệm chung của họ thông qua âm nhạc.
  • MORE MORE JUMP!: Hanasato Minori nuôi niềm mơ ước trở thành một thần tượng nổi tiếng. Mặc dù đã nhiều lần thất bại trong các buổi tuyển chọn nhưng cô ấy vẫn quyết tâm phấn đấu để vượt qua. Sau khi Minori đã tiến vào Sekai và gặp Miku mặc phong cách thần tượng - đã khuyến khích cô duy trì ước mơ của mình. Sau đó, Minori thành lập một nhóm nhạc thần tượng với ba cựu thần tượng gồm Kiritani Haruka, Momoi Airi và Hinomori Shizuku - những người đã từ giã sự nghiệp vì những vấn đề với công ty quản lý cũ của họ.
  • Vivid BAD SQUAD: Azusawa Kohane đã có niềm đam mê sâu sắc với âm nhạc đường phố kể từ khi cô tình cờ bắt gặp buổi diễn của Shiraishi An. Vì bị thu hút bởi giọng hát của An mà Kohane đã mời An vô lập một nhóm nhạc đường phố. Sau đó cô còn hợp tác với Shinonome Akito và Aoyagi Tōya. Cô đã tiến vào Sekai và gặp Miku mặc phong cách Hip-hop, và họ cùng nhau bắt đầu hành trình vượt qua một huyền thoại.
  • Wonderlands x Showtime: Tenma Tsukasa luôn cố gắng trở thành một ngôi sao để làm cho em gái cậu - Tenma Saki luôn hạnh phúc. Cậu vào làm việc bán thời gian tại công viên giải trí tên là Phoenix Wonderland. Nhưng Wonder Stage - rạp hát nổi tiếng tại công viên đã bị bỏ hoang một thời và đã vắng khách trong nhiều năm qua. Sau đó cậu gặp Otori Emu, một người có ao ước muốn khôi phục lại rạp hát về thời vinh quang của nó. Cùng với sự tham gia của Kamishiro Rui và Kusanagi Nene thì họ đã lập ra 1 đoàn kịch, khi họ tiến vào Sekai và gặp Miku mặc phong cách rạp xiếc với hy vọng sẽ phục hồi lại nhà hát và làm cho mọi người hạnh phúc.
  • Nightcord at 25:00: Yoisaki Kanade phải học tại nhà và trở nên sống ẩn dật vì chấn thương tâm lý mà cô ấy phải chịu do một sự cố trong quá khứ. Cô ấy đã thành lập một nhóm nhạc ngầm với ba người quen trên mạng của mình, họ thường liên lạc qua một phần mềm trò chuyện thoại có tên là "Nightcord" và luôn gặp nhau vào lúc "25h00" (1h sáng). Không ai trong số họ biết thân phận thật của nhau, chỉ biết nhau qua các biệt danh trực tuyến và qua trò chuyện thoại. Sau đó, Kanade bị cuốn vào một Sekai mà tại đó có sự hiện diện của một Miku mặc phong cách Gothic, người đã thúc giục cô giúp đỡ cho Asahina Mafuyu (người viết lời của nhóm), người đã biến mất một cách bí ẩn một tuần trước đó.

Theo trò chơi, sau một đoạn phim giới thiệu, người chơi phải chọn một trong năm khối cầu ba lần. Nếu như có hai khối cùng màu thì game sẽ đưa người chơi đến nhóm nhạc phù hợp tuỳ theo những gì đã chọn (Ví dụ: Nếu người chơi chọn khối cầu màu xanh dương thì game sẽ giới thiệu Leo/need,...). Nếu người chơi chọn các khối cầu có màu sắc khác nhau, game sẽ chọn nhóm liên quan đến màu của khối cầu cuối cùng.

Hiện tại có ba loại cốt chuyện:

  • Các câu chuyện chính (Main Stories) tập trung vào cốt truyện của một nhóm cụ thể, nhiều câu chuyện sẽ được mở khoá đi cấp độ của nhóm tăng.
  • Card Stories là câu chuyện chứa đựng trong thẻ của nhân vật, mở khoá bằng cách tăng cấp thẻ.
  • Các câu chuyện sự kiện (Event Stories) có thời hạn (thường là 7-9 ngày) được mở khóa bằng cách lấy điểm sự kiện, các câu chuyện vẫn có thể xem được trong lưu trữ khi hết sự kiện. Có hai loại câu chuyện: câu chuyện độc lập tập trung vào một nhóm cụ thể, câu chuyện hỗn hợp có sự góp mặt của nhiều nhân vật từ các nhóm khác nhau.

Nhân vật sửa

Leo/need sửa

 
Hoshino Ichika (星乃 一歌?)
Lồng tiếng bởi: Noguchi Ruriko[2]
Tenma Saki (天馬 咲希?)
Lồng tiếng bởi: Isobe Karin[2]
Mochizuki Honami (望月 穂波?)
Lồng tiếng bởi: Ueda Reina[2]
Hinomori Shiho (日野森 志歩?)
Lồng tiếng bởi: Nakashima Yuki[2]

MORE MORE JUMP! sửa

 
Hanasato Minori (花里 みのり?)
Lồng tiếng bởi: Ogura Yui[2]
Kiritani Haruka (桐谷 遥?)
Lồng tiếng bởi: Yoshioka Mayu[2]
Momoi Airi (桃井 愛莉?)
Lồng tiếng bởi: Furihata Ai[2]
Hinomori Shizuku (日野森 雫?)
Lồng tiếng bởi: Rina Honnizumi[2]

Vivid BAD SQUAD sửa

 
Azusawa Kohane (小豆沢 こはね?)
Lồng tiếng bởi: Akina[2]
Shiraishi An (白石 杏?)
Lồng tiếng bởi: Sumi Tomomi Jiena[2]
Shinonome Akito (東雲 彰人?)
Lồng tiếng bởi: Imai Fumiya,[2] Aoyama Reina (thuở nhỏ)
Aoyagi Tōya (青柳 冬弥?)
Lồng tiếng bởi: Itō Kent,[2] Hirayama Emi (thuở nhỏ)

Wonderlands×Showtime sửa

Tenma Tsukasa (天馬 司?)
Lồng tiếng bởi: Hirose Daisuke,[2] Takahashi Yui (thuở nhỏ)
Ōtori Emu (鳳 えむ?)
Lồng tiếng bởi: Kino Hina[2]
Kusanagi Nene (草薙 寧々?)
Lồng tiếng bởi: Machico[2]
Kamishiro Rui (神代 類?)
Lồng tiếng bởi: Toki Shun'ichi,[2] Mori Nanako (thuở nhỏ)

25-ji, Nightcord de. sửa

 
Yoisaki Kanade (宵崎 奏?)
Lồng tiếng bởi: Kusunoki Tomori[2]
Asahina Mafuyu (朝比奈 まふゆ?)
Lồng tiếng bởi: Tanabe Rui[2]
Shinonome Ena (東雲 絵名?)
Lồng tiếng bởi: Suzuki Minori[2]
Akiyama Mizuki (暁山 瑞希?)
Lồng tiếng bởi: Satō Hinata[2]

Lối chơi sửa

Lối chơi của Project Sekai chú trọng việc nhấn vào các nốt nhạc rơi theo hướng từ trên xuống trên màn hình, người chơi phải nhấn (tap), giữ (hold), trượt (slide) và vuốt (flick) các nốt tương ứng. Với mỗi lần chơi, người chơi thường có 1000 máu để hoàn thành một bài hát, nếu thanh máu tuột về 0 thì màn chơi kết thúc. Do đó, người chơi có thể chỉnh tốc độ rơi nốt và độ khó bài hát tùy theo khả năng. Độ khó của mỗi hát được xếp theo thứ tự tăng dần: Easy, Normal, Hard, Expert, Master và Append. Trò chơi còn hỗ trợ Live Boost để gia tăng phần thưởng nhận được sau mỗi lần chơi, vì mang cơ chế của game free-to-play, người chơi vẫn tiếp tục chơi được nếu hết boost.

Người chơi nhận điểm kinh nghiệm và pha lê bằng cách hoàn thành một bài hát và đọc hội thoại của nhân vật. Các đoạn hội thoại được trình bày dưới dạng visual novel, nhiều hội thoại được thêm vào sau mỗi sự kiện. Điểm kinh nghiệm dùng để nâng cao cấp độ của người chơi và của nhóm nhạc, nâng cao cấp độ nhóm nhạc mở khóa thêm câu chuyện của nhóm. Pha lê là loại tiền tệ trong game dùng để nhận các loại thẻ thông qua hệ thống gacha (thẻ bốn sao là hiếm nhất), ngoài phương thức nhận miễn phí, người chơi có thể dùng tiền thật để mua pha lê.

Trò chơi gồm hai chế độ chơi chính: Solo Live và Multi Live. Solo Live là chơi đơn. Multi Live là chế độ chơi chung xếp ngẫu nhiên năm người với nhau và chơi cùng một bài hát. Ngoài ra còn có Virtual Live, một tính năng cho người chơi xem các buổi hòa nhạc thực tế ảo sử dụng mô hình 3D, cũng như cổ vũ, tương tác với người chơi khác thông qua chat.

Bên cạnh đó trò chơi cũng bổ sung các chế độ chơi khác bao gồm:

  • Challenge Live: Chế độ chơi hằng ngày, chọn một nhân vật mong muốn và chơi một bài hát, sử dụng các thẻ nhân vật hiện có tương ứng với nhân vật lựa chọn (gồm 1 ô chính và 4 ô phụ). Khi kết thúc, nhân vật được chọn nhận điểm kinh nghiệm, và nhận thưởng ở mỗi cấp độ đạt được.
  • Cheerful Live: Chế độ này thay thế Multi Live trong các sự kiện hỗn hợp, chế độ này chơi theo hình thức 5vs5 (nhóm 5 người đấu với nhóm năm người khác) với bài hát được hệ thống chọn ngẫu nhiên. Đội nào giành nhiều điểm hơn sẽ giành chiến thắng.
  • Rank Match: Được phát hành vào tháng 3 năm 2022, về cơ bản nó tương tự như Cheerful Live, tuy nhiên chế độ này sẽ theo thể thức 1vs1. Điểm khác biệt chính là chế độ này sẽ tập trung vào yếu tố so tài kĩ năng, không phụ thuộc vào thẻ nhân vật mà bạn sở hữu. Kết thúc ván chơi, ai giành điểm số cao hơn sẽ giành chiến thắng. Ngoài ra, chế độ này cũng tích hợp thêm yếu tố xếp hạng theo mùa, xếp hạng càng cao thì phần thưởng sau mỗi mùa càng lớn.
  • Connect Live: Được phát hành vào năm 2022, đây là tính năng được nâng cấp từ Virtual Live, cho phép xem các buổi hòa nhạc thực tế ảo với sân khấu tân tiến hơn, tăng cường khả năng tương tác với người chơi và các ca sĩ và nhiều tính năng nâng cấp khác. Vivid BAD SQUAD 1st Connect Live - CRASH là buổi hòa nhạc đầu tiên được diễn ra với tính năng Connect Live này.

Âm nhạc sửa

Danh sách bài hát sửa

Hiện có tổng cộng 426 bài hát trong game tại máy chủ Nhật Bản, chủ yếu là bài hát Vocaloid. Hầu hết mỗi bài có hai phiên bản: phiên bản gốc (do ca sĩ ảo hát) và phiên bản Sekai (do các nhân vật với giọng người thật hát/cover); đôi khi phiên bản Sekai sẽ kèm giọng của một ca sĩ ảo. Một số bài hát có MV 3D và 2D gắn sau nền, MV 2D là những video ngắn được hoạt họa, bài hát không có MV chỉ hiển thị ảnh bìa bài hát. Danh sách dưới đây chỉ liệt kê một số bài hát gốc được sản xuất dành cho game, không bao gồm các bài cover:

Nhóm Bài hát Loại MV Nghệ sĩ
Virtual Singer magic number 2D Itō Kento, OSTER project
Machine Gun Poem Doll (マシンガンポエムドール Mashin Gan Poemu Dooru?) cosMo@Bousou-P
Saribitotachi no Waltz (去り人達のワルツ Saribitotachi no Warutsu?) mothy
Leo/need needLe 3D DECO*27, Rockwell
Stella (ステラ Sutera?) 3D Jin
Hare o Matsu (霽れを待つ?) 2D Orangestar
「1」 2D 164
From Tokyo (フロムトーキョー Furomu Tokyo?) 3D Takaaki Natsushiro, Watanabe Takuya
Ryuusei no Pulse (流星のパルス Ryuusei no parusu?) 2D *Luna
STAGE OF SEKAI 3D, 2D HarryP
Peaky Peaky 2D mikitoP
Order Made (オーダーメイド Ōdāmeido?) 3D Kasamura Tōta, Yuichi Murata
Teratera (てらてら?) 2D Wada Takeaki
Voices 3D Yuyoyuppe
the WALL 3D buzzG
Flyway 2D halyosy
Aioi (相生?) 2D Yairi
MORE MORE JUMP! Idol Shin'eitai (アイドル新鋭隊 Aidoru Shin'eitai?) 3D Mitchie M
More! Jump! More! (モア!ジャンプ!モア! Moa! Janpu! Moa!?) 2D NayutalieN
Color of Drops 3D 40mP
Tenshi no Clover (天使のクローバー Tenshi no Kurabā?) 3D DIVELA
Ai no Material (アイノマテリアル Ai no Materiaru?) 2D Junky
Ice Drop (アイスドロップ Aisu Doroppu?) 3D aqu3ra
Worldwide Wander (ワールドワイドワンダー Waarudowaido Wandaa?) 2D TOKOTOKO
Metamo Re:born (メタモリボン Metamoribon?) 2D emon(Tes.), Tudiken
If (イフ Ifu?) 3D YurryCanon, Tsukiyomi
Parasol Cider (パラソルサイダー Parasoru Saidā?) 2D Nanahoshi Kangengakudan
DREAM PLACE 3D EasyPop
Float Planner (フロート・プランナー Furooto Purannaa?) 2D Heavenz
"Momoiro no Kagi" (ももいろの鍵?) 3D iyowa
Vivid BAD SQUAD Ready Steady 3D Giga, q*Left
Forward 3D R Sound Design
RAD DOGS 2D HachiojiP, q*Left
Cinema (シネマ Shinema?) 2D, 3D Ayase
Beat Eater 2D Police Piccadilly
Mirai (ミライ?) 2D, 3D Kamiyama Yō
Flyer! 3D, 2D Chinozo
Gekkō (月光?) 2D Kitani Tatsuya, Harumaki Gohan
Awake Now 2D Yunosuke, Gyuuniku
Machi (?) 3D jon-YAKITORY
Utsuro o Aogu (虚ろを扇ぐ?) 2D ShishiShishi
Kashika (仮死化?) 3D Haruka Ryo
Hitsuji ga Ippiki (ひつじがいっぴき?) 2D Peg
Wonderlands × Showtime Sekai wa Mada Hajimatte sura Inai (セカイはまだ始まってすらいない?) 3D PinnochioP
potato ni Natteiku (potatoになっていく?) 3D Neru
Nijiiro Stories (ニジイロストーリーズ Nijiiro Sutōrīzu?) 2D OSTER project
Once Upon a Dream (ワンスアポンアドリーム Wansu Apon a Dorīmu?) 2D YASUHIRO
Tondemo Wonders (トンデモワンダーズ?) 3D, 2D sasakure.UK
Glory Steady Go! 2D Kinoshita
Showtime Ruler (ショウタイム・ルーラー Shoutaimu Ruuraa?) 3D Karasuyasabou
Niccori^^Chousa-tai no Theme (にっこり^^調査隊のテーマ Niccori^^Chousa-tai no Tēma?) 3D Jesus, WONDERFUL OPPORTUNITY!
88☆彡 2D marasy, kemu
Hoshizora no Melody (星空のメロディー Hoshizora no merodī?) 3D Polypho
Donna Ketsumatsu ga Onozomi dai? (どんな結末がお望みだい??) 2D TUYU
Hoshizora Orchestra (星空オーケストラ?) 3D Mizuno Atsu
Mr. Showtime 2D Hitoshizuku×Yama
25-ji, Nightcord de. Kuyamu to Kaite Mirai (悔やむと書いてミライ?) 3D mafumafu
Keitai Renwa (携帯恋話?) 2D
Jackpot Sad Girl (ジャックポットサッドガール Jakkupotto Saddo Gāru?) MV gốc, 2D syudou
Kagirinaku Haiiro e (限りなく灰色へ?) 3D Surii
ID Smile (アイディスマイル Aidi Sumairu?) 3D Toa
Kanade Tomosu Sora (カナデトモスソラ?) 2D Sasanomaly
Saisei (再生?) 3D Picon
Rouwaa (ロウワー?) 2D nulut
Tricologe (トリコロージュ?) 2D Niru Kajitsu
Nomad (ノマド?) 2D balloon
Bug (バグ?) 2D Kairiki bear
Kimi no Yoru o Kure (君の夜をくれ?) 3D Fullkawa Ryō
I nandesu (Iなんです?) 2D rerulili
Samsa (ザムザ Zamura?) 3D Teniwoha
Kitty (キティ?) 2D Tsumiki
Khác Sekai (セカイ?) 3D DECO*27, kemu, Rockwell
Wah Wah World (ワーワーワールド Waa Waa Waarudo?) Mitchie M, Giga
Gunjou Sanka (群青讃歌?) 3D, 2D Eve, Numa
Journey 2D, 3D DECO*27, Rockwell
Be The MUSIC! 2D Kinoshita

Danh sách album sửa

Dưới đây liệt kê album của từng nhóm nhạc (không bao gồm đĩa đơn), mỗi album tổng hợp các bài hát được chọn lọc có thời lượng đầy đủ:

STT Tên album Ngày phát hành Nghệ sĩ
1 WonderlandsxShowtime SEKAI ALBUM vol.1 (ワンダーランズ×ショウタイム SEKAI ALBUM vol.1?) 2 tháng 2, 2022 Wonderlands × Showtime
2 MORE MORE JUMP! SEKAI ALBUM vol.1 2 tháng 3, 2022 MORE MORE JUMP!
3 25-ji, Nightcord de. SEKAI ALBUM vol.1 (25時、ナイトコードで。 SEKAI ALBUM vol.1?) 6 tháng 4, 2022 25-ji, Nightcord de.
4 Leo/need SEKAI ALBUM vol.1 11 tháng 5, 2022 Leo/need
5 Vivid BAD SQUAD SEKAI ALBUM vol.1 1 tháng 6, 2022 Vivid BAD SQUAD
6 25-ji, Nightcord de. SEKAI ALBUM vol.2 (25時、ナイトコードで。 SEKAI ALBUM vol.2?) 10 tháng 1, 2024 25-ji, Nightcord de.
7 WonderlandsxShowtime SEKAI ALBUM vol.2 (ワンダーランズ×ショウタイム SEKAI ALBUM vol.2?) 24 tháng 1, 2024 WonderlandsxShowtime
8 MORE MORE JUMP! SEKAI ALBUM vol.2 7 tháng 2, 2024 MORE MORE JUMP!
9 Vivid BAD SQUAD SEKAI ALBUM vol.2 21 tháng 2, 2024 Vivid BAD SQUAD
10 Leo/need SEKAI ALBUM vol.2 6 tháng 3, 2024 Leo/need

Phát triển sửa

Trò chơi được công bố tại sự kiện Magical Mirai 2019 tổ chức vào ngày 30 tháng 8 năm 2019.[3][4] Ban đầu, Project Sekai là một ý tưởng xuất phát vào năm 2014 của Sega và Crypton Future Media, với mong muốn tạo một trò chơi Hatsune Miku trên thiết bị di động. Tuy nhiên, ý tưởng chưa tìm được hướng đi nên tiến độ phát triển gặp nhiều khó khăn.[5] Kondo Yuichiro, nhà sản xuất của BanG Dream! Girls Band Party! tại Craft Egg, đã được mời làm nhà sản xuất của game. Năm 2017, dự án bắt đầu và phần lớn được đảm nhiệm bởi Craft Egg, tuy nhiên Kondo nghĩ đến viễn cảnh dự án có thể lấn sang khâu phát triển của Girls Band Party!, nên vào năm 2018 thì ông đã thành lập Colorful Palette, một công ty hoàn toàn mới của Craft Egg, để tiếp tục phát triển game.[6][7][8] Theo Kondo, lý do ông bắt tay vào dự án vì "muốn thế hệ trẻ nghe nhiều Vocaloid hơn trên mạng". Dự án được miêu tả là "tác phẩm cho thấy sự tồn tại của Hatsune Miku" và "khai phá mối quan hệ giữa con người với âm nhạc."[8]

Phát hành sửa

Trò chơi mở đăng ký trước vào ngày 12 tháng 7 năm 2020. Tháng 9 năm 2020, tựa game đã đạt 1 triệu người đăng ký trước; Project Sekai chính thức phát hành tại Nhật Bản vào ngày 30 tháng 9 năm 2020 với 20 bài hát có sẵn.[9]

Sau một khoảng thời gian phát hành thành công tại Nhật Bản, Ariel Network phát hành phiên bản tiếng Trung phồn thể của game cho Đài Loan, Hồng KôngMa Cao từ ngày 30 tháng 9 năm 2021.[10] Phiên bản tiếng Anh được Sega phát hành tại 130 quốc gia/vùng lãnh thổ toàn cầu[c] với tên gọi: Hatsune Miku: Colorful Stage! vào ngày 7 tháng 12 năm 2021.[12][13] Phiên bản tiếng Hàn được phát hành tại Hàn Quốc bởi Nuverse vào ngày 20 tháng 5 năm 2022.[14]

Truyền thông khác sửa

Anime sửa

Vào buổi live-stream kỷ niệm một năm phát hành game, một loạt anime ngắn gồm 10 tập có tên Petit Sekai (ぷちセカ?) được công bố. Anime được phát sóng trên kênh Tokyo MX của Nhật Bản và được đăng tải lên trên kênh YouTube chính thức của Project Sekai,[15] cụ thể các tập phim ra mắt từ ngày 13 tháng 1 đến ngày 17 tháng 3 năm 2022. Anime này do hãng phim Scooter Films sản xuất mang phong cách chibi, nội dung miêu tả cuộc sống thường ngày của các nhân vật.[16]

Danh sách tập phim sửa

Số tập Tiêu đề[17] Ngày phát sóng gốc
1 "Renshū no Ato to Ieba" (練習の後といえば) 13 tháng 1, 2022
2 "Tatakae! Nenenger V" (戦え!ネネンガーV) 20 tháng 1, 2022
3 "Idol no Sainō" (アイドルの才能) 27 tháng 1, 2022
4 "Kohane Street DEBUT!" (こはね寿鳥糸DEBUT!) 3 tháng 2, 2022
5 "25ji Yamenai?" (25時やめない?) 10 tháng 2, 2022
6 "Leo/need Style" (レオニードスタイル) 17 tháng 2, 2022
7 "Jikū o Koete Wandaho~i!" (時空を超えてわんだほーい!) 24 tháng 2, 2022
8 "Bazure! Momojan!" (バズれ! モモジャン!) 3 tháng 3, 2022
9 "Uwasa no Pancake" (ラブラブを見せつけよ) 10 tháng 3, 2022
10 "Kappu Rāmen Kai" (カップラーメン回) 17 tháng 3, 2022

Giải đấu sửa

Project Sekai Championship (プロジェクトセカイ Championship) là giải đấu thể thao điện tử của Project Sekai: Colorful Stage được tổ chức bởi SEGA. Tính đến tháng 11 năm 2022, SEGA đã tổ chức 4 giải đấu về tựa game Project Sekai. Giải đấu này cũng là nơi sẽ công bố các bài hát mới nhất sẽ cập nhật trong tương lai.

Sau đây là các giải đấu được tổ chức bởi SEGA:

  • RAGE Project Sekai Championship 2020 Winter (RAGE プロジェクトセカイ 2020 Winter): Tổ chức từ ngày 22 tháng 11 năm 2020 đến ngày 13 tháng 12 năm 2020 (Tài trợ bởi RAGE Esports và Sharp Aquos)[18]
  • Project Sekai Championship 2021 Autumn (プロジェクトセカイ Championship 2021 Autumn): Tổ chức từ ngày 21 tháng 8 năm 2021 đến ngày 26 tháng 9 năm 2021[19]
  • Project Sekai Championship 2022 Spring (プロジェクトセカイ Championship 2022 Spring): Tổ chức từ ngày 26 tháng 2 năm 2022 đến ngày 30 tháng 4 năm 2022 (Tài trợ bởi Weiß SchwarzCup Noodle)[20]
  • Project Sekai Championship 2022 Autumn (プロジェクトセカイ Championship 2022 Autumn): Tổ chức từ ngày 15 tháng 9 năm 2022 đến ngày 26 tháng 11 năm 2022 (Tài trợ bởi Weiß Schwarz và Shibuya Scramble Figure)[21]

Chú thích sửa

Ghi chú sửa

  1. ^ Còn được viết tắt thành ProSeka (プロセカ Puroseka?)
  2. ^ Nhân vật Piapro ám chỉ đến các nhân vật của Crypton Future Media như Kagamine Rin/Len, Megurine Luka, KaitoMeiko, kể cả Miku
  3. ^ Bao gồm Bắc Mĩ, châu Âu, châu Đại Dương trừ châu Á và một số khu vực khác.[11]

Tham khảo sửa

  1. ^ “Project Sekai: Colorful Stage! feat. Hatsune Miku first details, footage”. Gematsu. 23 tháng 10 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2022.
  2. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t “「プロジェクトセカイ カラフルステージ! feat. 初音ミク」,ゲーム内に登場する5ユニット,総勢20名のプロフィールと相関図が公開に”. 4gamer.net (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2022.
  3. ^ “「プロジェクトセカイ」始動!&『初音ミク Project DIVA MEGA39's』が2020年2月13日発売決定! | 週刊ディーヴァ・ステーション | セガ”. info.miku.sega.jp (bằng tiếng Nhật). 30 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2022.
  4. ^ “Hatsune Miku smartphone game Project Sekai announced”. Gematsu. 22 tháng 6 năm 2022.
  5. ^ “初音ミクの新作リズムゲーム『プロジェクトセカイ』は、若者にボカロを気軽に楽しんでもらう"入口"を目指す。クリプトン×セガ×Craft Egg/Colorful Paletteインタビュー”. Famitsu (bằng tiếng Nhật). 23 tháng 9 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2022.
  6. ^ “『サイバーエージェント子会社社長の告白』 【第9弾】 Colorful Palette 近藤社長 「 "好きなこと" が自分を強くする!」”. bbanl.jp (bằng tiếng Nhật). 7 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2022.
  7. ^ “「プロジェクトセカイ」は現代の日本と"セカイ"を舞台に物語が展開。ゲームシステムや収録楽曲なども明らかにされた発表会の模様をレポート”. 4gamer.net (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2022.
  8. ^ a b “『プロジェクトセカイ』は音楽と人間の関わりを支える"初音ミク"という存在を具現化した作品に【開発者インタビュー】”. denfaminicogamer.jp (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2022.
  9. ^ “『プロジェクトセカイ』が本日9月30日配信! 初音ミクたちが音楽と物語を紡ぐスマホ用リズムゲーム”. Famitsu. 30 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2022.
  10. ^ GameBase.com.tw (31 tháng 8 năm 2021). “《世界計畫 繽紛舞台! feat. 初音未來》事前登錄展開!台港澳限量封測立即體驗”. news.gamebase.com.tw (bằng tiếng Trung). Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2022.
  11. ^ HATSUNE MIKU: COLORFUL STAGE! [@ColorfulStageEN] (1 tháng 12 năm 2021). “Hello everyone👋 We have an important announcement regarding SEA region service!”. Twitter. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2022.
  12. ^ “プロジェクトメッセージ vol.9 海外版のリリース Hatsune Miku: Colorful Stage!”. pjsekai.sega.jp (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2022.
  13. ^ “Hatsune Miku: Colorful Stage! launches December 7 in the west”. Gematsu (bằng tiếng Anh). 26 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2022.
  14. ^ “프로세카 CBT 종료”. Twitter (bằng tiếng Hàn). Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2022.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  15. ^ “TOKYO MXで25:00から放送予定” [Dự kiến phát sóng từ 25:00 trên TOKYO MX]. Twitter (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2022.
  16. ^ “「プロジェクトセカイ」新バーチャルライブ「コネクトライブ」などアップデート情報を公開!(Impress Watch)”. Yahoo!ニュース (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2021.
  17. ^ “ぷちセカ”. Petit Sekai trên website của Tokyo MX. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2022.
  18. ^ 初音ミク, RAGE , プロジェクトセカイ 2020 , eスポーツ, カラフルステージ. “RAGE プロジェクトセカイ 2020 | eスポーツ大会”. RAGE プロジェクトセカイ 2020 | eスポーツ大会 (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
  19. ^ “プロジェクトセカイ Championship 2021 Autumn | SEGA & Colorful Palette Inc”. プロジェクトセカイ Championship 2021 Autumn (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
  20. ^ “プロジェクトセカイ Championship 2022 Spring”. プロジェクトセカイ Championship 2022 Spring (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2022.
  21. ^ “プロジェクトセカイ Championship 2022 Autum”. プロジェクトセカイ Championship 2022 Autum (bằng tiếng Nhật). Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2022.

Liên kết ngoài sửa