Thành Gia Định hay còn được gọi là Phụng Thành, Phượng Thành là tên một tòa thành cổ của Việt Nam do vua Minh Mạng ra lệnh xây mới sau khi thành Bát Quái bị phá dỡ. Thành tồn tại từ năm 1836 đến 1859 thì bị phá hủy khi người Pháp chiếm được thành từ tay quan quân nhà Nguyễn.

Thành Gia Định
Sài Gòn (hiện giờ là Thành phố Hồ Chí Minh), Việt Nam
Hình dáng Thành Phụng theo mô tả trong một sơ đồ quy hoạch của Pháp năm 1867
Map
LoạiVauban
Thông tin địa điểm
Kiểm soát bởinhà Nguyễn
Điều kiệnThực dân Pháp phá hủy
Lịch sử địa điểm
Xây dựng1836
Xây dựng bởiMinh Mạng
Sử dụng1836
Bị phá hủy1859
Trận đánh/chiến tranhThuộc địa hóa Nam Kỳ của Thực dân Pháp

Lịch sử

sửa

Năm 1830, Lê Văn Duyệt cho sửa thành Bát Quái. Tiếc thay việc sửa thành, cộng thêm tư thù khi còn trẻ với Lê Văn Duyệt (Lê Văn Duyệt đã cho xử chém Huỳnh Công Lý, cha đẻ một quý phi được vua Minh Mạng sủng ái[1]), vua Minh Mạng đã vu cho ông tội nhị tâm (hai lòng) cho quân sang bằng mồ mả sau khi Lê Văn Duyệt mất[1] làm Lê Văn Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt, nổi loạn, đánh chiếm lấy thành Bát Quái và biến nơi đây thành căn cứ chính cho vuộc nổi dậy của mình từ năm 1833 đến 1835. Sau khi đánh bại Lê Văn Khôi vào năm 1835, vua Minh Mạng đã cho phá thành Bát Quái để xây thành mới năm 1836.[2][3]

Thành mới có tên là Thành Phụng hay thành Gia Định được xây dựng ở Đông Bắc thành cũ.

Thành Phụng và dấu tích thành Quy trên bản đồ Sài Gòn năm 1860 do Hải quân Pháp phác họa

Ngày 17 tháng 2 năm 1859, quân Pháp mở cuộc tấn công thành thành Gia Định và một ngày sau thì chiếm được thành. Án sát Lê Tứ, Hộ đốc Vũ Duy Ninh tự vẫn, Đề đốc Trần Trí, Bố chính Vũ Thực và Lãnh binh Tôn Thất Năng đem quân rút về Tây Thái, huyện Bình Long.

Ngày 8 tháng 3 năm 1859, quân Pháp đốt cháy kho tàng, phá hủy thành và rút ra để tránh quân triều đình nhà Nguyễn tấn công đánh chiếm lại thành. Dấu tích duy nhất còn lại đến ngày nay là bức tranh vẽ ảnh thực dân Pháp tấn công thành và những tàn tích dọc đường Đinh Tiên Hoàng về phía gần xưởng Ba Son.[2][4]

Dấu tích Thành Phụng trên bản đồ Sài Gòn năm 1882

Sau khi chiếm được toàn bộ Nam Kỳ, chính quyền thực dân Pháp xây dựng tại đây căn cứ của Trung đoàn dã chiến Nam Kỳ (Régiment de marche de Cochinchine), được thành lập năm 1869 Trại được xây dựng bằng nhiều vật liệu sắt và gạch phá dỡ từ thành Gia Định cũ. Người bình dân bấy giờ thường gọi là trại Săng-đá (đọc trại từ soldat mà ra). Năm 1890, Trung đoàn dã chiến Nam Kỳ được tổ chức lại, phân thành các trung đoàn bộ binh hải quân (régiments d'infanterie de marine) số 9, 10 và 11. Căn cứ này được chuyển thuộc quyền sử dụng của Trung đoàn bộ binh hải quân thứ 11 (11ème régiment d'infanterie de marine - 11ème RIM). Người bình dân bấy giờ thường gọi căn cứ của trung đoàn này là trại Ông-dèm hoặc thành Ông-dèm, đọc trại từ onzième trong tiếng Pháp nghĩa là thứ 11.

Sau khi người Pháp rút khỏi Đông Dương, chính phủ Việt Nam đã cho đổi tên trại Ông-dèm thành thành Cộng Hòa. Sau cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 thành Cộng Hòa bị phế bỏ. Hiện khu vực này bao gồm Sân vận động Hoa Lư, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Cán bộ Quản lý nông nghiệpĐại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

Kiến trúc

sửa
 
Sơ đồ Thành Gia Định

Thành Gia Định mới cũng được xây dựng theo kiến trúc Vauban nhưng nhỏ hơn nhiều, dễ bị bắn phá hơn và chỉ có bốn pháo đài bốn góc so với tám pháo đài của thành Bát Quái cũ. Tường thành cao 20 m dài trên 475 m được làm từ đá granite, gạch và đất. Xung quanh thành có hào nước bao bọc.

Chú thích

sửa
  1. ^ a b Dân không thờ sai ai bao giờ![liên kết hỏng] bài viết về vở kịch của Tả quân Lê Văn Duyệt
  2. ^ a b Địa danh Sài Gòn - TP.HCM qua các thời kỳ Lưu trữ 2008-09-29 tại Wayback Machine của tác giả Vân Trinh
  3. ^ Mantienne, p. 526.
  4. ^ Niên biểu 300 Sài Gòn-Thành phố Hồ Chí Minh Lưu trữ 2009-06-05 tại Wayback Machine trên trang chủ chính thức của Thành phố Hồ Chí Minh.

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa
  • Buttinger, Joseph (1958). The Smaller Dragon: A Political History of Vietnam. Praeger.
  • Cady, John F. (1964). Southeast Asia: Its Historical Development. McGraw Hill.
  • Chapuis, Oscar (2000). The last emperors of Vietnam: from Tu Duc to Bao Dai. Greenwood Press. ISBN 0-313-31170-6.
  • Hall, D. G. E. (1981). A History of South-east Asia. Macmillan. ISBN 0333241630.
  • Karnow, Stanley (1997). Vietnam: A history. London: Penguin Books. ISBN 0-670-84218-4.
  • Marr, David G. (1970). Vietnamese anticolonialism, 1885–1925. Berkeley: University of California. ISBN 0-520-01813-3.
  • Nguyen, Thanh Thi (1992). The French conquest of Cochinchina, 1858–1862. University Microfilms International.
  • Mantienne, Frédéric (2003). “The Transfer of Western Military Technology to Vietnam in the Late Eighteenth and Early Nineteenth Centuries: The Case of the Nguyen”. Journal of Southeast Asian Studies. 34 (3): 519–534. doi:10.1017/S0022463403000468.
  • McLeod, Mark W. (1991). The Vietnamese response to French intervention, 1862–1874. Praeger. ISBN 0-275-93652-0 Kiểm tra giá trị |isbn=: giá trị tổng kiểm (trợ giúp).