Kyrgyz Phú Dụ hay Kyrgyz Fuyu, Fuyu Kyrgyz (Fuyü Gïrgïs, Fu-Yu Kirgiz), còn được biết đến là Kirghiz Mãn Châu, là một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Turk. Dù tên chứa Kyrgyz, đây không phải là một dạng của tiếng Kyrgyz nhưng gần hơn với tiếng Khakas hiện đại và ngôn ngữ cổ đại của người Kyrgyz Yenisei. Những người sử dụng ngôn ngữ này có nguồn gốc từ vùng Yenisei của Siberia nhưng đã được người Dzungar (người Chuẩn Cát Nhĩ) điều chuyển đến Dzungaria.[3][4][5]

Kyrgyz Phú Dụ
Mãn Châu Kyrgyz
Kyrgysdar
Kyrgyz Fuyu
Fuyu Kyrgyz
Gĭrgĭs
Oyrot
Jilijisi
Yenisei Tatar
Abakan Tatar
Fuyu Ka'erkezi
Fuyü Gïrgïs
Fu-Yu Kirgiz
Gĭrgĭs
Phát âm[qərʁəs]
Sử dụng tạiTrung Quốc
Khu vựcHắc Long Giang
Tổng số người nóiKhoảng 15 người (2017)
Dân tộcKyrgyz Phú Dụ
Phân loạiTurk
Mã ngôn ngữ
ISO 639-3Không
GlottologKhông có
ELPManchurian Kirghiz
Bài viết này có chứa ký tự ngữ âm IPA. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tự Unicode. Để biết hướng dẫn giới thiệu về các ký hiệu IPA, xem Trợ giúp:IPA.
Người Kyrgyz Phú Dụ
Gïrgïs, Kyrgysdar
Tổng dân số
1,400
Khu vực có số dân đáng kể
 Trung Quốc 1,400
Ngôn ngữ
tiếng Kyrgyz Phú Dụ
Sắc tộc có liên quan
người Khakas

Năm 1761, sau khi người Dzungar bị nhà Thanh đánh bại, một nhóm người Yenisei Kirghiz đã bị trục xuất (cùng với một số người Dzungar nói tiếng Öelet hoặc Oirat) đến lưu vực sông NộnMãn Châu, Đông Bắc Trung Quốc.[6][7] Người KyrgyzMãn Châu sau đó được biết đến là Phú Dụ Kyrgyz, nhưng nhiều người đã hòa nhập vào dân tộc Mông CổTrung Quốc. Tiếng Trung và tiếng Oirat đã thay thế tiếng Kirghiz trong thời kỳ Mãn Châu Quốc như ngôn ngữ kép của người Kyrgyz vùng Nộn.[8]

Tiếng Kyrgyz Phú Dụ hiện được nói ở đông bắc tỉnh Hắc Long Giang của Trung Quốc, trong và xung quanh huyện Phú Dụ, Tề Tề Cáp Nhĩ (300 km về phía tây bắc Cáp Nhĩ Tân) bởi một số ít người nói thụ động được phân loại là dân tộc Kyrgyz.[9]

Âm vị học

sửa

Mặc dù phân tích âm vị hoàn chỉnh của Girgis đã không được hoàn thành,[10] Hu và Imart đã thực hiện nhiều quan sát về hệ thống âm thanh trong mô tả dự kiến ​​của họ về ngôn ngữ. Họ mô tả Girgis có các nguyên âm ngắn được ghi chú là "a, ï, i, o, ö, u, ü" tương ứng gần với IPA [a, ə, ɪ, ɔ, œ, ʊ, ʉ], với cách làm tròn tối thiểu và khuynh hướng tập trung hóa.[11] Độ dài nguyên âm là âm vị và xảy ra như một kết quả của xóa bỏ phụ âm (Girgis /pʉːn/ so với Kyrgyz /byɡyn/). Mỗi nguyên âm ngắn có một nguyên âm dài tương đương, với sự bổ sung của /e/. Girgis hiển thị sự hài hòa nguyên âm cũng như sự hòa hợp phụ âm.[12] Các phụ âm trong Girgis, bao gồm các biến thể của dị âm đồng vị, là [p, b, ɸ, β, t, d, ð, k, q, ɡ, h, ʁ, ɣ, s, ʃ, z, ʒ, dʒ, tʃ, m, n, ŋ, l, r, j]. Girgis không hiển thị sự khác biệt về âm vị giữa bộ dừng /p, t, k/ và /b, d, ɡ/; các điểm dừng này cũng có thể được chuyển thành [pʰ, tʰ, kʰ] trong các từ mượn tiếng Trung.[13]

Diễn giả

sửa

Năm 1980, Kyrgyz Phú Dụ đã được đa số người lớn trong cộng đồng khoảng một trăm gia đình sử dụng. Tuy nhiên, nhiều người lớn trong khu vực đã chuyển sang nói nhiều dạng tiếng Mông Cổ địa phương, và trẻ em đã chuyển sang tiếng Trung như được dạy trong hệ thống giáo dục.[14]

 
Bảng Chữ Cái Tiếng Kyrgyz Phú Dụ

Ví dụ

sửa

Một bài hát bằng tiếng Kyrgyz Phú Dụ:
dax diben šabim am,
dabendar baarsen γaxen jap,
γairen jaxse buurul adim (in),
γaaneng dibes dabim am?
γap diben šabim am,
γapxandar baarsen γaxen jap,
γairen jaxse buurul adim (in),
γaaneng dibes dabim am?
ib diben šabim am,
ečikter baarsen γaxen jap,
γairen jaxse buurul adim (in),
γaaneng dibes dabim am?
say diben šabim am,
sanderdar baarsen γaxen jap,
γairen jaxse buurul adim (in),
γaaneng dibes dabim am?
bulux diben šabim am,
belterdar baarsen γaxen jap,
γairen jaxse buurul adim (in),
γaaneng dibes dabim am?
γer diben šabim am,
γergestar baarsen γaxen jap,
γaren jaxse buurul adim (in),
γaaneng dibes dabim am?

Xem thêm

sửa

Ghi chú

sửa
  1. ^ Keith Brown; Sarah Ogilvie biên tập (2010). Concise Encyclopedia of Languages of the World . Elsevier. tr. 1109. ISBN 978-0080877754.
  2. ^ Johanson 1998, p. 83.
  3. ^ Tchoroev (Chorotegin) 2003, p. 110.
  4. ^ Pozzi & Janhunen & Weiers 2006, p. 113.
  5. ^ Giovanni Stary; Alessandra Pozzi; Juha Antero Janhunen; Michael Weiers (2006). Tumen Jalafun Jecen Aku: Manchu Studies in Honour of Giovanni Stary. Otto Harrassowitz Verlag. tr. 112–. ISBN 978-3-447-05378-5.
  6. ^ Juha Janhunen (1996). Manchuria: An Ethnic History. Finno-Ugrian Society. tr. 111–112. ISBN 978-951-9403-84-7.
  7. ^ Stephen A. Wurm; Peter Mühlhäusler; Darrell T. Tryon biên tập (ngày 11 tháng 2 năm 2011). Atlas of Languages of Intercultural Communication in the Pacific, Asia, and the Americas. de Gruyter. tr. 831. ISBN 9783110819724.
  8. ^ Juha Janhunen (1996). Manchuria: An Ethnic History. Finno-Ugrian Society. tr. 59. ISBN 978-951-9403-84-7.
  9. ^ Hu & Imart 1987, tr. 1
  10. ^ Hu & Imart 1987, tr. 11
  11. ^ Hu & Imart 1987, tr. 8–9
  12. ^ Hu & Imart 1987, tr. 24–25
  13. ^ Hu & Imart 1987, tr. 11–13
  14. ^ Hu & Imart 1987, tr. 2–3

Tham khảo

sửa
  • Hu, Zhen-hua; Imart, Guy (1987), Fu-Yü Gïrgïs: A tentative description of the easternmost Turkic language, Bloomington, Indiana: Indiana University Research Institute for Inner Asian Studies
  • Li, Yongsŏng; Ölmez, Mehmet; Kim, Juwon (2007), “Some Newly Identified Words in Fuyu Kirghiz (Part 1)”, Ural-Altaische Jahrbücher, Neue Folge, 21: 141–169

Liên kết ngoài

sửa