Viêm phúc mạc
Viêm phúc mạc là viêm khu vực phúc mạc, lớp lót của thành trong của bụng, đóng vai trò lớp bao phủ các cơ quan trong bụng.[2] Các triệu chứng có thể bao gồm đau dữ dội, sưng bụng, sốt hoặc sụt cân.[3] Một phần hoặc toàn bộ bụng có thể bị đau.[1] Các biến chứng có thể bao gồm sốc và hội chứng suy hô hấp cấp tính.[4][5]
Viêm phúc mạc | |
---|---|
Tên khác | Bụng ngọai khoa, bụng cấp tính[1] |
Viêm phúc mạc do bệnh lao | |
Phát âm | |
Khoa/Ngành | Y học cấp cứu, phẫu thuật tổng quát l |
Triệu chứng | Đau dữ dội, sưng bụng, sốt[2][3] |
Biến chứng | Sốc tuần hoàn, hội chứng suy hô hấp cấp tính[4][5] |
Khởi phát | Thình lình[1] |
Loại | Cơ bản, thứ cấp[1] |
Nguyên nhân | Thủng đường tiêu hóa, Viêm tụy, Viêm vùng chậu, Xơ gan, Viêm ruột thừa[3] |
Yếu tố nguy cơ | Cổ trướng, Thẩm phân phúc mạc[4] |
Phương pháp chẩn đoán | Khám sức khỏe, Xét nghiệm máu, Hình ảnh y khoa[6] |
Điều trị | Kháng sinh, Tiêm tĩnh mạch, Thuốc giảm đau, phẫu thuật[3][4] |
Dịch tễ | Khá phổ biến[1] |
Nguyên nhân bao gồm thủng đường ruột, viêm tụy, bệnh viêm vùng chậu, loét dạ dày, xơ gan hoặc vỡ ruột thừa.[3] Các yếu tố nguy cơ bao gồm cổ trướng và thẩm phân phúc mạc.[4] Chẩn đoán thường dựa trên kiểm tra, xét nghiệm máu và hình ảnh y tế.[6]
Điều trị thường bao gồm kháng sinh, truyền dịch, thuốc giảm đau và phẫu thuật.[3][4] Các biện pháp khác có thể bao gồm ống thông mũi hoặc truyền máu. Nếu không điều trị tử vong có thể xảy ra trong vòng một vài ngày. Khoảng 7,5% số người bị viêm ruột thừa tại một số thời điểm.[1] Khoảng 20% những người bị xơ gan nhập viện có bị viêm phúc mạc.
Dấu hiệu và triệu chứng
sửaĐau bụng
sửaCác biểu hiện chính của viêm phúc mạc là đau bụng cấp tính, đau bụng mềm, thành bảo vệ bụng, cứng thành bụng, nặng hơn khi di chuyển phúc mạc, ví dụ, ho (ho có thể được sử dụng như một bài kiểm tra), uốn cong hông hoặc có dấu hiệu Blumberg (aka sự hồi phục bụng mềm, có nghĩa là ấn một bàn tay vào bụng sẽ làm giảm cơn đau hơn là rút bàn tay một cách đột ngột, điều này sẽ làm cho cơn đau trở nên trầm trọng hơn, vì phúc mạc trượt trở lại). Độ cứng là thuộc tính rất đặc hiệu để chẩn đoán viêm phúc mạc (độ đặc hiệu: 76 – 100%, tỷ lệ khả năng dương tính: 3.6).[7] Sự hiện diện của những dấu hiệu này ở một người đôi khi được gọi là phúc mạc.[8] Sự cục bộ hóa của các biểu hiện này phụ thuộc vào việc viêm phúc mạc có khu trú hay không (ví dụ viêm ruột thừa hoặc rối loại tiêu hóa), hoặc tổng quát cho toàn bộ bụng. Trong cả hai trường hợp, đau thường bắt đầu như một cơn đau bụng chung chung (với sự tham gia của cơn đau cục bộ hóa của lớp màng bụng nội tạng), và có thể trở thành cơn đau cục bộ sau đó (có liên quan đến lớp màng bụng). Viêm phúc mạc là một ví dụ về đau bụng cấp tính.
Tham khảo
sửa- ^ a b c d e f Ferri, Fred F. (2017). Ferri's Clinical Advisor 2018 E-Book: 5 Books in 1 (bằng tiếng Anh). Elsevier Health Sciences. tr. 979–980. ISBN 9780323529570.
- ^ a b “Peritonitis - National Library of Medicine”. PubMed Health. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2017.
- ^ a b c d e f “Peritonitis”. NHS. ngày 28 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2017.
- ^ a b c d e f “Acute Abdominal Pain”. Merck Manuals Professional Edition. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2017.
- ^ a b “Acute Abdominal Pain”. Merck Manuals Consumer Version. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2017.
- ^ a b “Encyclopaedia: Peritonitis”. NHS Direct Wales. ngày 25 tháng 4 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2017.
- ^ McGee, Steven R. (2018). “Abdominal Pain and Tenderness”. Evidence-based physical diagnosis (ấn bản thứ 4). Philadelphia, PA: Elsevier. ISBN 9780323508711. OCLC 959371826.
- ^ “Biology Online's definition of peritonism”. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2008.