"Yellow Flicker Beat" là bài hát của nữ ca sĩ thu âm người New Zealand Lorde. Được sáng tác bởi Lorde và Joel Little và sản xuất bởi Little và Paul Epworth, bài hát được phát hành vào ngày 29 tháng 9 năm 2014, trở thành đĩa đơn đầu tiên từ album nhạc phim cho bộ phim điện ảnh The Hunger Games: Húng nhại – Phần 1, phát hành bởi hãng thu âm Republic Records. "Yellow Flicker Beat", với sự xuất hiện của một số âm thanh điện tử, được coi là một bài hát thuộc thể loại nhạc art popelectropop. Phong cách âm nhạc của "Yellow Flicker Beat" được so sánh với các sản phẩm âm nhạc được phát hành trước đó của Lorde như bài hát "Biting Down" trong The Love Club EP (2013) và album phòng thu đầu tay của cô, Pure Heroine (2013). Phần lời của bài hát có liên quan tới sự nổi dậy của Katniss Everdeen, nhân vật nữ chính trong The Hunger Games.

"Yellow Flicker Beat"
Bài hát của Lorde từ album The Hunger Games: Mockingjay – Part 1
Phát hành29 tháng 9 năm 2014 (2014-09-29)
Định dạngTải nhạc số
Thu âm28–29 tháng 8 năm 2014;
Lakehouse Recording Studios, Asbury Park, New Jersey
Thể loại
Thời lượng3:52
Hãng đĩaRepublic
Sáng tác
Sản xuất

Bài hát được tiếp nhận khá tốt từ các nhà phê bình âm nhạc, họ đề cao phần lời nhạc đã trưởng thành hơn so với các sản phẩm trước đó của Lorde. Về mặt thương mại, "Yellow Flicker Beat" đạt ví trí cao nhất là ba mươi tư trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ và lọt vào các bảng xếp hạng âm nhạc của nhiều quốc gia, trong đó có Úc, Canada và New Zealand. Video âm nhạc của bài hát được đạo diễn bởi Emily Kai Bock được phát hành vào ngày 7 tháng 11 năm 2014. Bốn ngày sau, một bản phối khác của bài hát có tựa đề "Flicker (Kanye West Rework)" đồng sản xuất bởi Lorde và Kanye West được phát hành. Lorde biểu diễn bài hát tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2014 vào ngày 23 tháng 11 năm 2014. Bài hát được đề cử cho hạng mục Ca khúc trong him hay nhất tại Giải Quả cầu vàng lần thứ 72,[1]Ca khúc trong phim hay nhất tại Giải chọn lựa của các nhà phê bình phim lần thứ 20.[2]

Bối cảnh và phát hành sửa

Ngày 31 tháng 7 năm 2014, Lorde được công bố sẽ thu âm một số bài hát cho album nhạc phim The Hunger Games: Húng nhại – Phần 1.[3] Ngày 23 tháng 9 năm 2014, Lorde thông báo rằng bài hát có tựa đề "Yellow Flicker Beat" sẽ được phát hành vào ngày 29 tháng 9 năm 2014.[4]

Bài hát được sáng tác bởi Lorde và Joel Little và được sản xuất bởi Paul Epworth.[5] "Yellow Flicker Beat" được thu âm tại Phòng thu Lakehouse Recording Studios tại New Jersey vào ngày 28 và 29 tháng 8 năm 2014. Bài hát được chỉnh sửa bởi Matt Wiggins và Erik Kase Romero.[6] Vào ngày 29 tháng 9 năm 2014, "Yellow Flicker Beat" được phát hành kĩ thuật số trên cửa hàng trực tuyến iTunes Store trên toàn thế giới bởi Republic Records.[7] Cùng ngày đó, bài hát được gửi tới đài phát thanh contemporary hit radio của Ý và đài adult album alternative (AAA) cùng với đài modern rock của Mỹ.[8][9]

Video âm nhạc sửa

Video âm nhạc cho "Yellow Flicker Beat" được đạo diễn bởi Emily Kai Bock[10] và được phát hành vào ngày 7 tháng 11 năm 2014 lúc nửa đêm (giờ New Zealand), khi Lorde bước sang tuổi mười tám.[11] Video mở đầu với cảnh Lorde hát trong một căn phòng trọ đèn mờ, với kiểu tóc hất ngược ra phía sau. Sau đó, video thể hiện Lorde ở nhiều ảnh quay và ở những địa điểm khác nhau: trong phòng bếp, trên đường cao tốc, trong một nhà chứa máy bay và trong một bữa tiệc cocktail mang phong cách thập niên 1920.[12] Ở mỗi địa điểm, Lorde lại xuất hiện với những phong cách khác nhau, về cả trang phục lẫn cách trang điểm.[13] Và cũng trong những cảnh quay này, Lorde "thể hiện những điệu nhảy giậm giật đầy mê hoặc của mình."[14]

Zach Dionne từ Billboard khen ngợi phong cách thời trang ở trong video và cho rằng nó thật "tuyệt vời".[15] Jon Blistein của Rolling Stone thì cho rằng video âm nhạc này hầu như chẳng liên quan gì đến The Hunger Games; tuy nhiên, nó lại bắt được cái "sự dễ bị ghét bỏ và tính bất chấp vốn là nguồn nhiên liệu cho Katniss."[16] Tương tự, Andrew Untergerger từ Spin viết rằng video này rất "đáng thất vọng [bởi vì] nó không có bất kì một cảnh quay Hunger Games nào bên trong", sau đó khen ngợi việc sản xuất tổng quan và gọi nó "mang chất điện ảnh."[13] Còn đại diện cho MTV News, Abby Devora viết rằng Lorde đang "thực sự chạm đến cái chất riêng của mình" và gọi nó là một sự thay đổi đáng mong đợi so với các video âm nhạc trước đó của Lorde.[12]

Biểu diễn trực tiếp sửa

Vào ngày 2 tháng 10 năm 2014, Lorde biểu diễn "Yellow Flicker Beat" lần đầu tiên tại nhà hát Hearst Greek Theatre tại Berkeley, California.[17] Cuối tháng đó, cô biểu diễn trực tiếp bài hát tại lễ hội âm nhạc ACL Music Festival.[18] Lorde cũng biểu diễn "Yellow Flicker Beat" tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2014 vào ngày 23 tháng 11 năm 2014.[19] Billboard mô tả buổi biểu diễn này "...thành thật mà nói, đây là chân dung không tì vết của cái chất riêng trong Lorde.", và miêu tả nó "tốt một cách đáng sợ".[20]

Bản phối của Kanye West sửa

Lorde và Kanye West hợp tác sản xuất một phiên bản khác của "Yellow Flicker Beat", lấy tựa là "Flicker (Kanye West Rework)", cũng nằm trong album nhạc phim của Mockingjay – Part 1, tại một phòng thu ở Malibu, California.[21] Bản phối được phát hành vào ngày 11 tháng 11 năm 2014, là một trong các bài hát được mua trước từ album.[22] Nói về việc cộng tác với West, Lorde bình luận, "Anh ấy thật là kín đáo tôi cảm thấy kì quặc khi nói về cách mà anh ta thực hiện mọi việc. Tôi cảm thấy thật may mắn khi thậm chí còn được ở chung phòng cùng anh ta."[23] Bản phối này là sự kết hợp giữa việc tối giản phần sản xuất, tiếng synthesiser với "kết cấu ghê rợn" và những nhịp đập "bùm bụp, nặng trĩu và vang vọng", tuy nhiên nó lại không có sự góp giọng của West.[24] Theo như một số nhà phê bình âm nhạc, phần sản xuất của bản phối gợi nhớ tới album Yeezus (2013) của West.[23][25][26] Emilee Lindner từ MTV News cho rằng phiên bản làm lại này "ghê rợn một cách tuyệt vời."[27]

Danh sách bài hát sửa

Tải nhạc số[7]
  1. "Yellow Flicker Beat" – 3:52

Xếp hạng sửa

Chứng nhận sửa

Quốc gia Chứng nhận Doanh số
Úc (ARIA)[43] Vàng 35.000^
New Zealand (RMNZ)[44] Bạch kim 15.000*

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành sửa

Quốc gia Ngày Định dạng Hãng đĩa
Úc[7] 29 tháng 9 năm 2014 Tải nhạc số Republic Records
Bỉ[45]
Canada[46]
Phần Lan[47]
Đức[48]
New Zealand[49]
Bồ Đào Nha[50]
Tây Ban Nha[51]
Thụy Sĩ[52]
Anh[53]
Mỹ[54]
Ý[8] Contemporary hit radio Universal Music Group
Mỹ[9] Adult album alternative
Modern rock

Tham khảo sửa

  1. ^ “2015Golden Globe nominations”. ngày 11 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2014.
  2. ^ “2015 Critics' Choice Awards”. ngày 15 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2015.
  3. ^ Michaels, Sean (ngày 1 tháng 8 năm 2014). “Lorde appointed as 'sole curator' of music for next Hunger Games film”. The Guardian. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2014.
  4. ^ Young, Alex (ngày 23 tháng 9 năm 2014). “Lorde announces new single, 'Yellow Flicker Beat'. Consequence of Sound. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2014.
  5. ^ Yellow Flicker Beat (Single download notes). Lorde. Republic Records. 2014.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  6. ^ Angermiller, Michele Amabile (ngày 5 tháng 9 năm 2014). “Inside Lorde's 'Hunger Games' Recording Session”. Billboard. Truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2014.
  7. ^ a b c “Yellow Flicker Beat – Single”. Australia: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  8. ^ a b Aldi, Giorgia. “Lorde – Yellow Flicker Beat (Universal)” (bằng tiếng Ý). Radio Airplay SRL. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2014.
  9. ^ a b Radio add dates for "Yellow Flicker Beat" in the US:
  10. ^ Beauchemin, Molly (ngày 6 tháng 11 năm 2014). “Lorde Shares 'Yellow Flicker Beat' Video”. Pitchfork Media. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2014. templatestyles stripmarker trong |work= tại ký tự số 1 (trợ giúp)
  11. ^ “Lorde to release new music video at midnight”. The New Zealand Herald. ngày 6 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 11 năm 2014.
  12. ^ a b Devora, Abby (ngày 6 tháng 11 năm 2014). “Lorde's 'Yellow Flicker Beat' Video Is Darker Than Ever”. MTV News. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014. templatestyles stripmarker trong |work= tại ký tự số 1 (trợ giúp)
  13. ^ a b Unterberger, Andrew (ngày 6 tháng 11 năm 2014). “Lorde Puts the Hair, Makeup, and Costume People to Work in 'Yellow Flicker Beat' Video”. Spin. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  14. ^ “Lorde shows off new look in Yellow Flicker Beat video”. The New Zealand Herald. ngày 7 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  15. ^ Dionne, Zach (ngày 6 tháng 11 năm 2014). “Lorde's 'Yellow Flicker Beat' Video Is Here”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  16. ^ Blistein, Jon (ngày 6 tháng 11 năm 2014). “Lorde Ditches the Glitz in 'Yellow Flicker Beat' Video”. Rolling Stone. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  17. ^ Villa, Lucas (ngày 6 tháng 10 năm 2014). “Lorde delivers first live performance of 'Yellow Flicker Beat'. AXS. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2014.
  18. ^ Haupt, Melanie (ngày 13 tháng 10 năm 2014). “ACL Live Shot: Lorde, 17-year-old New Zealander waxes cool blue and icy”. The Austin Chronicle. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2014.
  19. ^ Strecker, Erin (ngày 23 tháng 11 năm 2014). “Lorde crushes 'Yellow Flicker Beat'. Billboard. Truy cập ngày 24 tháng 11 năm 2014.
  20. ^ “Lorde Won The AMAs Without Winning Any Awards”. Billboard. ngày 24 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2015.
  21. ^ Goodman, Lizzy (ngày 31 tháng 10 năm 2014). “Billboard Cover: Lorde on Her 'Hero' Kanye West, the 'Hunger Games' Soundtrack and Hype-Proofing Her Career”. Billboard. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2014.
  22. ^ “The Hunger Games: Mockingjay, Pt. 1”. United States: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  23. ^ a b Hiatt, Brian (ngày 7 tháng 11 năm 2014). “Lorde Talks 'Hunger Games,' Nirvana and Plans for a New LP”. Rolling Stone. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2014.
  24. ^ Hughes, Josiah (ngày 11 tháng 11 năm 2014). “Lorde - 'Flicker' (Kanye West rework)  • Music / Video”. Exclaim!. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2014.
  25. ^ Camp, Zoe (ngày 11 tháng 11 năm 2014). “Kanye West's Rework of Lorde's 'Flicker' From Hunger Games: Mockingjay, Pt. 1 Surfaces”. Pitchfork Media. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2014.
  26. ^ “Listen to Kanye West's haunting rework of Lorde's 'Flicker'. Fact. ngày 11 tháng 11 năm 2014.
  27. ^ Lindner, Emilee (ngày 11 tháng 11 năm 2014). “Kanye West Makes Lorde's 'Yellow Flicker Beat' Even More Menacing: Listen”. MTV News. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2014.
  28. ^ "Australian-charts.com – Lorde – Yellow Flicker Beat" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2014.
  29. ^ "Austriancharts.at – Lorde – Yellow Flicker Beat" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2014.
  30. ^ "Ultratop.be – Lorde – Yellow Flicker Beat" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratip. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2014.
  31. ^ "Lorde Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2014.
  32. ^ "Lescharts.com – Lorde – Yellow Flicker Beat" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2014.
  33. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Single (track) Top 40 lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége.
  34. ^ "Chart Track: Week 41, 2014" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart.
  35. ^ "Charts.nz – Lorde – Yellow Flicker Beat" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập 4 tháng 10 năm 2024.
  36. ^ "Swisscharts.com – Lorde – Yellow Flicker Beat" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2014.
  37. ^ “Official Singles Chart UK Top 100”. Official Charts Company. ngày 11 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  38. ^ "Lorde Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2014.
  39. ^ "Lorde Chart History (Hot Rock Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2014.
  40. ^ "Lorde Chart History (Alternative Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2014.
  41. ^ “Top Selling Singles of 2014”. nztop40.co.nz. Recorded Music NZ. Truy cập ngày 24 tháng 1 năm 2015.
  42. ^ “Hot Rock Songs: Year End 2014”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2014.
  43. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2015 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  44. ^ “Chứng nhận đĩa đơn New Zealand – Lorde – Yellow Flicker Beat” (bằng tiếng Anh). Recorded Music NZ. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2015.
  45. ^ “Yellow Flicker Beat – Single”. Belgium: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  46. ^ “Yellow Flicker Beat – Single”. Canada: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  47. ^ “Yellow Flicker Beat – Single”. Finland: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  48. ^ “Yellow Flicker Beat – Single” (bằng tiếng Đức). Germany: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  49. ^ “Yellow Flicker Beat – Single”. New Zealand: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  50. ^ “Yellow Flicker Beat – Single” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Portugal: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  51. ^ “Yellow Flicker Beat – Single” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Spain: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  52. ^ “Yellow Flicker Beat – Single” (bằng tiếng Đức). Switzerland: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  53. ^ “Yellow Flicker Beat – Single”. United Kingdom: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.
  54. ^ “Yellow Flicker Beat – Single”. United States: iTunes Store. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2015.

Liên kết ngoài sửa