Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tề Uy vương”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 46:
| nơi mất = [[Trung Quốc]]
}}
'''Điền Tề Uy vương''' ([[chữ Hán]]: 田齊威王, [[379 TCN]]?-[[320 TCN]], trị vì [[356 TCN]]-[[320 TCN]] hay [[379 TCN]]-[[343 TCN]]<ref name="Sử ký, Điền Kính Trọng Hoàn thế gia">Sử ký, Điền Kính Trọng Hoàn thế gia</ref>), tên thật là '''Điền Nhân Tề''' (田因齊), là vị vua thứ 3<ref name="Sử ký, Điền Kính Trọng Hoàn thế gia">Sử ký, Điền Kính Trọng Hoàn thế gia</ref> hay thứ 4<ref>Phương Thi Danh, sách đã dẫn, tr</ref> của [[Điền Tề]], [[chư hầu nhà Chu]] trong [[lịch sử Trung Quốc]].
Điền Nhân Tề là con của [[Điền Tề Hoàn công]], vua thứ 2 (3) của Điền Tề.
==Mâu thuẫn về niên đại==
Theo Sử kí, Điền Nhân Tề lên ngôi năm [[379 TCN]] và mất năm [[341 TCN]], đồng thời phong Trâu Kị làm tướng năm thứ 9 ([[370 TCN]]). Tuy nhiên sử kí cũng ghi lại rằng phụ thân của ông là Điền Tề Hoàn công ra đời năm [[400 TCN]]. Thời xưa, trung bình 20 tuổi mới sinh con, nên năm sinh của Tề Uy vương có thể là trước sau năm [[380 TCN]]. Do đó, khi lên ngôi, Điền Nhân Tề chỉ được vài tuổi, đến năm [[370 TCN]] thì ông vẫn chỉ khoảng 10 tuổi, không thể trị nước được. Một số sử gia cho rằng thực chất [[379 TCN]] là năm sinh của ông. Cách lí giải này là thích hợp nhất vì lúc ông ra đời, vua cha Tề Hoàn công được 22 tuổi. Các sử sách hiện đại cũng cho rằng năm mất của ông không phải [[341 TCN]] mà là [[320 TCN]]
==Nhất minh kinh nhân==
Sau khi Tề Uy vương lên ngôi, ba nước [[Hàn (nước)|Hàn]], [[Ngụy (nước)|Ngụy]], [[Triệu (nước)|Triệu]] nhân [[nước Tề]] có tang đem quân đánh Tề, chiếm Linh Khâu. Năm [[373 TCN]], [[nước Lỗ]] đem quân đánh Tề, tiến vào Dương Quan<ref name="Sử ký, Điền Kính Trọng Hoàn thế gia">Sử ký, Điền Kính Trọng Hoàn thế gia</ref>. Đến năm [[371 TCN]], quân Tề và quân Vệ lại xảy ra chiến tranh, nước Vệ chiếm Tiết Lăng của Tề. Hai năm sau, đến nước Triệu cũng đem quân đánh Tề, chiếm đất Chân.
Theo Sử kí, Tề Uy vương từ khi lên ngôi không chăm lo quốc chính, giao hết việc cho các đại thần, còn mình ngày đêm vui chơi đàn hát. Tình trạng này kéo dài 9 năm.
Năm [[370 TCN]], Tề Uy vương triệu đại phu đất Tức Mặc và đất A vào cung luận công tội. Các quan đại phu nghe thường khen quan đại phu đất A, chê quan đại phu Tức Mặc. Khi Tề Uy vương ra triều, nói với quan đại phu đất Tức Mặc:
-''"Từ khi khanh ra ở đất Tức Mặc, quả nhân thường nghe nhiều lời chê bai khanh. Lúc quả nhân sai người đến xem xét, thấy nhân giàu có, việc quan không chậm trễ, đông phương được yên. Nhưng khanh không chịu đút lót cho bọn hầu cận của quả nhân, nên bị chúng gièm pha.''"
Năm 341 TCN, tướng Tề Điền Kỵ ganh ghét tướng quốc là Trâu Kị nên tấn công Lâm Truy để tìm Trâu Kỵ, nhưng thất bại, phải chạy sang [[sở (nước)|nước Sở]].▼
Rồi thưởng cho quan đại phu Tức Mặc vạn hộ. Ông lại bảo đại phu đất A:
-''"Từ khi người đến đất A, ngày nào quả nhân cũng nghe thấy lời khen ngợi. Quả nhân sai người đến đất A xem xét, thấy ruộng nương bỏ hoang, nhân dân bần khổ. Lúc [[nước Triệu]] đánh đất Chân, ngươi không tới cứu. Nước Vệ đánh Tiết Lăng, người không hay biết. Vậy là ngươi chỉ biết đút lót cho tả hữu của quả nhân, nên mới được khen như vậy''".
Năm 340 TCN (hay 320 TCN), Uy vương chết, con ông là Điền Tích Cường nối ngôi, tức [[Tề Tuyên vương]]▼
Rồi ông sai mang đại phu đất A và những người tả hữu khen đại phu đất A mà chê đại phu Tức Mặc đem nấu. Sau đó, Tề Uy vương khởi binh đánh [[nước Vệ]] và [[nước Triệu]]. Chư hầu thấy [[nước Tề]] cường thịnh, suốt 10 năm không nước nào dám đem quân đánh<ref name="Sử ký, Điền Kính Trọng Hoàn thế gia">Sử ký, Điền Kính Trọng Hoàn thế gia</ref>.
[[Thể loại:Vua Điền Tề]]▼
Có người thư sinh là [[Trâu Kị]] đem đàn đến gặp Tề Uy vương, mượn việc gảy đàn để khuyên Tề Uy vương chăm lo quốc chính. Tề Uy vương cảm phục cho mời ở lại. Ba tháng sau, ông phong Trâu Kị làm tướng quốc.
==Chiến tranh với Ngụy==
Năm [[356 TCCN]], Tề Uy vương cùng [[Triệu Thành hầu]] hội minh ở Bình Lục. Năm sau, ông lại cùng [[Ngụy Huệ vương]] hội ở đất Giao.
Năm [[353 TCN]], [[nước Ngụy]] đem quân đánh [[nước Triệu]], bao vây Hàm Đan. Triệu sai sứ đến [[nước Tề]] cầu cứu. Tề Uy vương hội triều thần bàn kế có nên giúp Triệu không. Đại phu Đoạn Cán cho rằng nên đóng quân giữa đường, rồi phao tin muốn chiếm Tương Lăng để dụ quân Ngụy rút về. Tề Uy vương nghe theo, sai [[Điền Kỵ]] đánh Tương Lăng. Tướng [[nước Ngụy]] là [[Bàng Quyên]] nghe tin, rút quân về cứu, bị quân Tề đánh bại ở trận Quế Lăng.
Theo Sử kí, năm [[346 TCN]], Tề Uy vương giết chết đại phu Mưu Tân.<ref>Sử kí không nêu rõ lý do Tề Uy vương giết Mưu Tân</ref>
Năm [[341 TCN]], [[nước Ngụy]] xảy ra chiến tranh với Hàn và Triệu, [[nước Hàn]] sai sứ sang cầu cứu Tề. Tề Uy vương cử Điền Kỵ, Điền Anh và Tôn Tẫn đem quân giúp Hàn. Nhờ mưu kế của [[Tôn Tẫn]], quân Tề đánh bại quân Ngụy ở Mã Lăng, bắt sống thái tử Thân [[nước Ngụy]], giết tướng Ngụy là [[Bàng Quyên]].
Năm [[335 TCN]], Tề Uy vương hội với [[Ngụy Huệ vương]] ở A Nam. Năm sau, [[Ngụy Huệ vương]] và [[Hàn Chiêu hầu]] đến yết kiến Tề Uy vương, tôn ông làm vương. Tề Uy vương không muốn xưng vương một mình, bèn mời vua Ngụy cũng xưng vương, sử gọi là Hội Từ châu tương vương<ref>Từ châu ngày nay nằm ở vùng Đông Bắc Sơn Đông, Trung Quốc</ref>. Từ đó [[nước Tề]] tự vương hiệu.
Năm [[332 TCN]], [[Sở Uy vương]] nghe tin Ngụy, Tề hội xưng vương, bèn Cánh Thúy đánh [[nước Tề]]. Cảnh Thúy đại thắng quân Tề ở Từ Châu.
▲Năm
▲Năm
==Xem thêm==
*[[Điền Tề Hoàn công]]
*[[Điền Tề Tuyên vương]]
*[[Trâu Kỵ]]
*[[Ngụy Huệ vương]]
==Tham khảo==
*[[Sử kí Tư Mã Thiên]], thiên
**''Điền Kính Trọng Hoàn thế gia''
*Phương Thi Danh ([[2001]]), ''Niên biểu lịch sử Trung Quốc'', NXB Thế giới
==Chú thích==
{{tham khảo}}
[[Thể loại:Sinh 378 TCN]]
[[Thể loại:Mất 343 TCN]]
[[Thể loại:Mất 320 TCN]]
|