Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giải thoát”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Tham khảo: clean up using AWB |
n Alphama Tool, General fixes |
||
Dòng 7:
Con đường của giải thoát chính là con đường lớn mà chúng ta cần phải đi !
Như lai đã từng thuyết " nước biển chỉ có vị mặn và chánh pháp cũng vậy chỉ có vị của sự giải thoát "
như lai đã từng thuyết " dù là pháp đúng hay pháp sai cần phải có sự buông bỏ
như lai đã sống tỉnh thức suốt 24h trong 1 ngày và ngài đã hành trì từ khi đạt đạo cho tới khi nhập niết bàn
==Giải thoát trong Ấn Độ giáo==
Nếu như triết học Trung Quốc đi vào nghiên cứu đời sống chính trị xã hội với những quan niệm xã hội hiện thực, nhằm tìm ra những biện pháp, những cách thức để cải biến và ổn định trật tự xã hội, giáo dục đạo đức con người thì triết học Ấn Độ nói chung và tư tưởng Phật giáo nói riêng lại tập trung vào lý giải bản chất đời sống tâm linh con người. Theo đó, Phật giáo hướng con người vượt qua sự mê ngộ, vô minh, nhận ra bản tính của mình và thực tướng của vạn vật, hòa nhập được vào với bản thể vũ trụ tuyệt đối, chân thực, bằng nhận thức trực giác,
Giải thoát theo tiếng Phạn là moksha, mukti (mộc xoa, mộc đề).
Theo các kinh sách triết học và tôn giáo cổ Ấn Độ, từ giải thoát có rất nhiều nghĩa, người ra có thể xem xét nó qua các mặt khác nhau như trạng thái, mục đích, phương tiện và kết quả. Và người ta cũng có thể xem xét nó ở các bản thể luận hay mặt nhận thức luận, mặt triết học, mặt tâm lý cũng như mặt đạo đức, tôn giáo.
Trong triết lý Phật giáo Ấn Độ, giải thoát tức là trạng thái đời sống tinh thần con người vượt ra khỏi mọi sự rang buộc của thế giới nhục dục, là sự
==Giải thoát trong Kì-na giáo==
Dòng 21:
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
{{Viết tắt Phật học}}
|