Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khối Thịnh vượng chung”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Tập tin Flag_commonwealth.jpg đã bị bỏ ra khỏi bài viết vì nó đã bị xóa ở Commons bởi Túrelio vì lý do: Derivative of non-free content: Deleted three times before: […
n AlphamaEditor, General Fixes
Dòng 75:
| leader_name2 = [[Kamalesh Sharma]]
| established_event1 = {{nowrap|Pháp lệnh Westminster 1931}}
| established_date1 = 11 tháng 12 năm 1931<ref>{{citechú thích web |url=http://www.civilservice.gov.uk/wp-content/uploads/2011/09/AnnexB_Commonwealth.pdf |title=Annex B — Territories Forming Part of the Commonwealth |date=September 2011 |publisher=[[Her Majesty's Civil Service]] |accessdate=ngày 19 Novembertháng 11 năm 2013}}</ref>
| established_event2 = {{nowrap|Tuyên ngôn Luân Đôn}}
| established_date2 = 28 tháng 4 năm 1949
Dòng 100:
}}
 
'''Thịnh vượng chung của các quốc gia''' ({{lang-en|Commonwealth of Nations}}, thường gọi là '''Thịnh vượng chung''' (trước đây là '''Thịnh vượng chung Anh''' - ''British Commonwealth''),{{ref|a}} là một tổ chức liên chính phủ của 53 quốc gia thành viên<ref>{{citechú thích web|url=http://thecommonwealth.org/about-us |title=About us |publisher=The Commonwealth |accessdate=2013-10-03}}</ref> hầu hết từng là lãnh thổ của cựu [[Đế quốc Anh]]. Thịnh vượng chung hoạt động theo sự nhất trí liên chính phủ của các quốc gia thành viên được tổ chức thông qua Ban thư ký Thịnh vượng chung, và các tổ chức phi chính phủ được tổ chức thông qua Quỹ Thịnh vượng chung.<ref name="the commonwealth">{{citechú thích web|url=http://www.thecommonwealth.org/Internal/191086/191247/the_commonwealth|title=The Commonwealth|publisher=The Commonwealth|accessdate=ngày 30 Junetháng 6 năm 2013}}</ref>
 
Thịnh vượng chung bắt nguồn từ giữa thế kỷ 20 với sự phi thuộc địa hóa của Đế quốc Anh thông qua tăng quyền tự quản cho các lãnh thổ. Tổ chức chính thức thành lập bằng Tuyên ngôn Luân Đôn năm 1949, trong đó xác định các quốc gia thành viên là "tự do và bình đẳng".<ref>{{citechú thích web|url=http://www.thecommonwealth.org/document/181889/34293/35468/214257/londondeclaration.htm|title=The London Declaration|publisher=The Commonwealth|accessdate=ngày 4 Julytháng 7 năm 2013}}</ref> Biểu tượng của liên kết tự do này là Nữ vương [[Elizabeth II]], bà là nguyên thủ của Thịnh vượng chung. Nữ vương cũng là quân chủ của 16 thành viên trong Thịnh vượng chung, được gọi là "[[Vương quốc Khối thịnh vượng chung|các vương quốc Thịnh vượng chung]]". Các thành viên khác trong Thịnh vượng chung có những nhân vật khác nắm giữ vị thế nguyên thủ quốc gia: 32 thành viên theo chế độ cộng hòa và năm thành viên có quân chủ là một nhân vật khác.
 
Các quốc gia thành viên không có nghĩa vụ pháp lý với nhau. Thay vào đó, họ liên hiệp thông qua ngôn ngữ, lịch sử, văn hóa, và chia sẻ những giá trị về dân chủ, nhân quyền và pháp trị.<ref name="the commonwealth"/> Những giá trị này được ghi trong Hiến chương Thịnh vượng chung<ref name=charter>{{citechú thích web|url=http://www.thecommonwealth.org/document/181889/34293/35468/252053/charter.htm|title=Charter of the Commonwealth|publisher=The Commonwealth|accessdate=ngày 30 Junetháng 6 năm 2013}}</ref> và được xúc tiến thông qua [[Đại hội thể thao Thịnh vượng chung]].
 
Thịnh vượng chung bao phủ hơn {{convert|29958050|km2|sqmi|abbr=on}}, gần một phần tư diện tích đất liền thế giới, và trải trên mọi lục địa. Với dân số ước tính là 2,328 tỷ vào năm 2013, gần một phần ba dân số thế giới,<ref>{{citechú thích web|url=http://www.census.gov/popclock|title=US and World Population Clock|date=ngày 29 Junetháng 6 năm 2013|publisher=[[United States Census Bureau|US Census Bureau]]|accessdate=ngày 30 Junetháng 6 năm 2013}}</ref> Thịnh vượng chung vào năm 2014 có GDP danh nghĩa là 10.450 tỷ USD, chiếm 14% GDP danh nghĩa toàn cầu.
 
==Lịch sử==
{{main|Đế quốc Anh}}
[[FileTập tin:CommonwealthPrimeMinisters1944.jpg|thumb|Các thủ tướng của 5 thành viên trong Hội nghị các thủ tướng Thịnh vượng chung năm 1944.]]
 
Trong khi công du Úc vào năm 1884, Bá tước [[Archibald Primrose]] mô tả [[Đế quốc Anh]] đang biến hóa là một "Thịnh vượng chung của các quốc gia", trong khi một số thuộc địa trở nên độc lập hơn.<ref>{{citechú thích web|url=http://www.thecommonwealth.org/Internal/191086/34493/history|title=History &ndash; Though the modern Commonwealth is just 60 years old, the idea took root in the 19th century|publisher=Commonwealth Secretariat |work=thecommonwealth.org|accessdate=ngày 29 Julytháng 7 năm 2011}}</ref> Những hội nghị của các thủ tướng Anh Quốc và thuộc địa diễn ra định kỳ kể từ lần đầu tiên vào năm 1887, dẫn đến thiết lập các Hội nghị Đế quốc vào năm 1911.<ref>{{cite journal|last=Mole|first=Stuart|title=Seminars for statesmen': the evolution of the Commonwealth summit|journal=[[The Round Table Journal|The Round Table]]|date=September 2004|volume=93|issue=376|pages=533&ndash;546 |doi=10.108n0/0035853042000289128}}</ref>
 
Thịnh vượng chung phát triển từ các hội nghị đế quốc. [[Jan Smuts]] trình một đề xuất cụ thể vào năm 1917 khi ông đặt ra thuật ngữ "Thịnh vượng chung Anh của các quốc gia" và hình dung "các quan hệ hiến pháp tương lai và điều chỉnh về bản chất" tại Hội nghị Versailles năm 1919 bởi các đại biểu đến từ các quốc gia tự trị cũng như Anh Quốc.<ref>F.S. Crafford, ''Jan Smuts: A Biography'' (2005) p. 142</ref> Thuật ngữ lần đầu được công nhận pháp lý tầm đế quốc trong [[Hiệp định Anh-Ireland]] năm 1921, khi "Thịnh vượng chung Anh của các quốc gia" thay thế cho "Đế quốc Anh" trong lời tuyên thệ của các thành viên nghị viện [[Quốc gia Tự do Ireland]].<ref>{{citechú bookthích sách|title=Peace by ordeal: an account, from first-hand sources of the negotiation and signature of the Anglo-Irish Treaty 1921|last=Pakenham|first=Frank|authorlink=Frank Pakenham, 7th Earl of Longford|year=1972|publisher=Sidgwick and Jackson|isbn=0283979089}}</ref>
 
Theo Tuyên ngôn Balfour tại Hội nghị Đế quốc năm 1926, Anh Quốc và các quốc gia tự trị đồng ý rằng họ "bình đẳng về vị thế, quyết không lệ thuộc một bên vào bên khác trong bất kỳ phương diện đối nội và đối ngoại, tuy nhiên liên hiệp bằng lòng trung thành chung với quân chủ, và liên kết tự do với vị thế các thành viên của Thịnh vượng chung Anh của các quốc gia." Những phương diện về quan hệ được chính thức hóa theo Pháp lệnh Westminster năm 1931, áp dụng cho [[Canada]] không cần phê chuẩn, song [[Australia]], [[New Zealand]], và [[Quốc gia tự trị Newfoundland|Newfoundland]] buộc phải phê chuẩn để nó có hiệu lực. Newfoundland chưa từng thực hiện điều này, do vào ngày 16 tháng 2 năm 1934, chính phủ Newfoundland tự nguyện kết thúc và nhiệm vụ cai trị trở lại dưới quyền kiểm soát trực tiếp từ Luân Đôn. Newfoundland sau đó gia nhập Canada với vị thế một tỉnh vào năm 1949.<ref>{{citechú thích web|url=http://www.heritage.nf.ca/law/commission_gov.html|title=The Commission of Government, 1934-1949|publisher=Newfoundland and Labrador Heritage Website|work=heritage.nf.ca|date=January 2003|accessdate=ngày 29 Julytháng 7 năm 2011|author=Webb, Jeff A.}}</ref> Australia và New Zealand lần lượt phê chuẩn Pháp lệnh vào năm 1942 và 1947.<ref>{{citechú thích web|url=http://foundingdocs.gov.au/item-sdid-96.html|title=Statute of Westminster Adoption Act 1942 (Cth)|publisher=Museum of Australian Democracy at Old Parliament House |work=foundingdocs.gov.au (Documenting a Democracy)|accessdate=ngày 29 Julytháng 7 năm 2011}}</ref><ref>{{citechú thích web|url=http://www.parliament.nz/en-NZ/ParlSupport/ResearchPapers/9/1/8/00PLLawRP07041-New-Zealand-sovereignty-1857-1907-1947-or-1987.htm|title=New Zealand Sovereignty: 1857, 1907, 1947, or 1987?|publisher=[[Parliament of New Zealand]]|work=parliament.nz|date=August 2007|accessdate=ngày 29 Julytháng 7 năm 2011}}</ref>
 
Sau khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] kết thúc, Đế quốc Anh dần tan vỡ cho đến khi Anh Quốc còn lại 14 [[Lãnh thổ hải ngoại thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh|lãnh thổ hải ngoại]]. Trong tháng 4 năm 1949, sau Tuyên ngôn Luân Đôn, từ "Anh" bị bỏ khỏi danh hiệu của Thịnh vượng chung nhằm phản ánh biến hóa về bản chất của nó.<ref>{{citechú thích web|url=http://www.thecommonwealth.org/Internal/191086/34493/187367/celebrating_thecommonwealth_60|title=Celebrating thecommonwealth@60|publisher=Commonwealth Secretariat|work=thecommonwealth.org|date=ngày 26 Apriltháng 4 năm 2009|accessdate=ngày 29 Julytháng 7 năm 2011}}</ref> [[Myanmar]] (1948) và [[Aden]] (1967) là những quốc gia duy nhất là thuộc địa của Anh trong thế chiến song không gia nhập Thịnh vượng chung khi độc lập. Những lãnh thổ bảo hộ và được ủy thác cũ của Anh song không trở thành thành viên của Thịnh vượng chung là Ai Cập (độc lập năm 1922), [[Iraq]] (1932), [[Jordan|Transjordan]] (1946), [[Palestine thuộc Anh]] (bộ phận trở thành quốc gia [[Israel]] năm 1948), [[Sudan]] (1956), [[Somaliland thuộc Anh]] (thống nhất với [[Somaliland thuộc Ý]] cũ vào năm 1960 để hình thành Cộng hòa Somali), [[Kuwait]] (1961), [[Bahrain]] (1971), [[Oman]] (1971), [[Qatar]] (1971), và [[Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất]] (1971).
 
Ngày 18 tháng 4 năm 1949, Ireland chính thức trở thành một nước cộng hòa theo Đạo luật Cộng hòa Ireland năm 1948, do vậy tự động loại trừ khỏi Thịnh vượng chung. Trong khi Ireland không tích cực tham dự trong Thịnh vượng chung kể từ đầu thập niên 1930 và sẵn lòng rời Thịnh vượng chung, thì các quốc gia tự trị khác mong muốn trở thành các nước cộng hòa mà không mất liên kết Thịnh vượng chung. Vấn đề lên đến đỉnh điểm vào tháng 4 năm 1949 trong một hội nghị các thủ tướng Thịnh vượng chung tại Luân Đôn. Theo Tuyên ngôn Luân Đôn, Ấn Độ chấp thuận rằng khi họ trở thành một nước cộng hòa trong tháng 1 năm 1950, họ sẽ chấp thuận quân chủ Anh như một "biểu trưng của liên kết tự do của các quốc gia thành viên độc lập trong Khối và bởi thế là nguyên thủ của Thịnh vượng chung. Khi nghe về điều này, Quốc vương [[George VI]] nói với chính trị gia người Ấn Độ [[Krishna Menon]]: "Thế là tôi thành 'bởi thế'".<ref>[http://www.indianexpress.com/news/staying-loyal-to-george/581730/0 Indianexpress.com]</ref> Các quốc gia Thịnh vượng chung khác công nhận Ấn Độ duy trì tư cách thành viên của tổ chức. Do Pakistan kiên trì, Ấn Độ không được nhìn nhận là một trường hợp đặc biệt và các quốc gia khác sẽ được đối xử tương tự như Ấn Độ.
Dòng 139:
|14/12/1895
|06/02/1952
|28/04/1949{{#tag:ref|Based on the [[London Declaration]] and does not match his reign as king, which began on ngày 11 Decembertháng 12 năm 1936.|name=GVI}}
|06/02/1952
|-