Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phongxiô Philatô”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, General Fixes
n ct
Dòng 13:
'''Pontius Pilatus''' là [[tổng trấn]] thứ 5 của tỉnh La Mã [[Iudaea|Judaea]] từ năm 26 tới năm 36 sau [[Công nguyên]]<ref>{{chú thích web|url=http://www.britannica.com/EBchecked/topic/460341/Pontius-Pilate |title=Britannica Online: Pontius Pilate |publisher=Britannica.com |accessdate=21 March 2012}}</ref><ref>{{chú thích web|author=Jona Lendering |url=http://www.livius.org/jo-jz/judaea/judaea.htm |title=Judaea |publisher=Livius.org |accessdate=ngày 21 tháng 3 năm 2012}}</ref> dưới thời hoàng đế [[Tiberius]], và nổi tiếng về phiên tòa xử [[chúa Giêsu]] bị đóng đinh vào thập giá, theo trình thuật của các [[Phúc âm]].
 
Các nguồn về cuộc đời của Pontius Pilatus gồm một tấm bia khắc chữ gọi là [[Pilate Stone]]<ref>phiến đá vôi 82 cm x 65 cm do Pontius Pilatus sai khắc chữ, cho biết chức vụ của ông ta là tổng trấn xứ Judea, do các nhà khảo cổ tìm được ở thành phố "Caesarea Maritima", [[Israel]] năm 1961</ref>; trình thuật về việc Pilatus ra lệnh hành quyết chúa Giêsu của sử gia kiêm nghị viên nguyên lão [[Tacitus]]; triết gia [[Philo]] (khoảng năm 25 trước CN - năm 50 sau CN); sử gia [[Josephus]] (khoảng năm 37 - năm 100 sau CN); 4 [[sách Phúc âm]] chính thức; cùng những tác phẩm ngụy tác khác.
 
Căn cứ vào những nguồn nêu trên, Pilatus là một hiệp sĩ thuộc dòng họ "Pontii", được bổ nhiệm làm tổng trấn xứ Judea vào năm 26 sau Công nguyên, kế vị tổng trấn [[Valerius Gratus]]. Có một lần Pilatus đã xúc phạm những tình cảm tôn giáo của dân chúng do ông cai trị, dẫn tới sự chỉ trích nặng nề từ triết gia [[Philo]], và sau đó nhiều thập niên là những chỉ trích của sử gia [[Josephus]]. Theo Josephus<ref>Flavius Josephus, ''Jewish Antiquities'' [http://lexundria.com/go?q=J.+AJ+18.89&v=wst 18.89.]</ref>, Pilatus được lệnh trở về [[Rome]] sau khi đàn áp tàn bạo một cuộc nổi dậy của [[người Samaritan]], nhưng chỉ về tới Rome ngay sau khi hoàng đế Tiberius đã từ trần vào ngày 16 tháng 3 năm 37. Pilatus được [[Marcellus, tổng trấn xứ Judea|Marcellus]] thay thế.
Dòng 19:
Theo trình thuật của cả 4 sách Phúc âm thì Pilatus đã tìm cách cho chúa Giêsu khỏi bị án tử hình, và chỉ tới khi đám đông dân chúng từ chối giảm tội, thì ông mới buộc lòng ra lệnh giết chúa Giêsu. Như vậy, ông đã tìm cách tránh trách nhiệm cá nhân trong việc kết án chúa Giêsu. Theo [[Phúc Âm Mátthêu]], Pilatus đã rửa tay để chứng tỏ mình không chịu trách nhiệm về vệc giết chúa Giêsu và miễn cưỡng giao chúa Giêsu cho dân chúng đem đi giết<ref name="Harris">[[Stephen L Harris|Harris, Stephen L.]], Understanding the Bible. Palo Alto: Mayfield. 1985.</ref>. [[Phúc Âm Máccô]] thì mô tả chúa Giêsu vô tội trong âm mưu chống lại [[đế quốc La Mã]], và mô tả Pilatus miễn cưỡng phải xử tử hình Ngài<ref name="Harris"/>. Theo [[Phúc âm Luca]], Pilatus không chỉ đồng ý là chúa Giêsu không âm mưu chống lại đế quốc La Mã mà cũng không chống lại [[Herod Antipas]], vua xứ [[Galilee]], và không coi hành động của chúa Giêsu là phản bội<ref name="Harris"/>. Trong [[Phúc âm Gioan]], Pilatus nói rằng "Tôi thấy người này (tức chúa Giêsu) không có tội" và yêu cầu những người Do Thái thả Ngài ra<ref>{{chú thích web|url=http://www.biblegateway.com/passage/?search=John%2018:33-40&version=ESV |title=John 18:38-39 ESV – My Kingdom is Not of This World |publisher=Bible Gateway |accessdate=ngày 9 tháng 6 năm 2012}}</ref>.
 
Từ lâu, các học giả từng tranh luận về việc mô tả Pontius Pilatus trong các nguồn nêu trên, cũng như tầm quan trọng của [[Pilate Stone]] (tấm đá Pilatus), một vật tạo tác có nêu tên Pontius Pilatus, được phát hiện năm 1961.<ref>Jerry Vardaman, ''A New Inscription Which Mentions Pilate as 'Prefect' '', ''[[Journal of Biblical Literature]]'' Vol. 81, 1962. pp 70–71.</ref><ref>Craig A. Evans, ''Jesus and the ossuaries'', Volume 44, Baylor University Press, 2003. pp 45–47</ref>
 
==Tính lịch sử của Pontius Pilatus==
[[Tập tin:Pilate Inscription.JPG|thumb|Tấm đa vôi có chữ khắc được phát hiện năm 1961 về việc Pilatus cung hiến cho hoàng đế [[Tiberius]] bằng tiếng latin. Các từ<small>[...]TIVS PILATVS[...]</small> có thể đọc thấy rõ ở hàng thứ hai.]]
 
Bằng chứng vật chất duy nhất xác nhận sự tồn tại của Pilatus là những dòng khắc chữ Latin khắc, được tìm thấy trên một tấm đá vôi liên quan tới việc Pilatus cung hiến cho hoàng đế Tiberius<ref name="IMJ">{{chú thích web|title=Pontius Pilate, Prefect of Judah – Latin dedicatory inscription|url=http://www.english.imjnet.org.il/Popup.aspx?c0=13142|website=The Israel Museum|publisher=The Israel Museum, Jerusalem 1995-2015}}</ref>. Tấm đá này thường được gọi là [[Pilate Stone]] (tấm đá Pilatus), được một toán nhà khảo cổ dưới sự hướng dẫn của "Antonio Frova" phát hiện năm 1961<ref>{{cite journal|last1=Sherwin-White|first1=A.N.|title=A. Frova, L'iscrizione di Ponzio Pilato a Cesarea|journal=The Journal of Roman Studies|date=1964|volume=54|page=258}}</ref>, là một tấm đá được sử dụng lại ở cầu thang của một khán đài vòng lộ thiên tại thành phố [[Caesarea Maritima]] - thành phố cổ của [[Israel]] ở ven bờ [[Địa Trung Hải]] - xưa kia là trung tâm hành chính của đế quốc La Mã ở xứ [[Judea]]. Vị [[quan khâm mạng (La Mã cổ)|quan khâm mạng La Mã]] có trụ sở ở thành phố này, chỉ tới [[Jerusalem]] vào những dịp đặc biệt hoặc khi có sự bất ổn. Tấm đá là một mảnh vỡ có khắc chữ cung hiến của một tòa nhà - có lẽ là một ngôi đền - được xây dựng để vinh danh hoàng đế [[Tiberius]]<ref>[http://en.wikisource.org/wiki/The_Annals_(Tacitus)/Book_15#44 Tacitus, ''Annals'', 15.44]</ref><ref>[http://lexundria.com/go?q=J.+AJ+18.89&v=wst 18.89. ''Antiquities of the Jews'', 18.3.3 §63]</ref>, từ khoảng năm 26–36&nbsp;sau Công nguyên<ref name="IMJ"/>. Lời cung hiến cho biết Pontius Pilatus là [[tổng trấn xứ Judaea]] ( ''praefectus Iudaeae'').
 
Các thống đốc đầu tiên ở Judaea có cấp bậc tổng trấn, các thống đốc sau này có cấp bậc quan khâm sai, bắt đầu từ [[Cuspius Fadus]] năm 44&nbsp;sau Công nguyên. Tấm đá nói trên hiện nay được đặt trong [[Nhà bảo tàng Israel]] ở Jerusalem<ref>{{cite journal|last1=Vardaman|first1=Jerry|title=A New Inscription Which Mentions Pilate as 'Prefect'|journal=Journal of Biblical Literature|date=1962|volume=81|page=70-71}}</ref><ref>{{chú thích sách|last1=Evans|first1=Craig A.|title=''Jesus and the Ossuaries|date=2003|publisher=Baylor University Press|page=45-47|edition=Vol. 44}}</ref> trong khi một bản sao đặt ở thành phố Caesarea.<ref>Inventory number: AE 1963 no. 104</ref>
Dòng 45:
Chức năng chủ yếu của các "quan khâm sai" (procurator) và "tổng trấn" (prefect) là điều khiển quân sự; tuy nhiên - vì là đại diện của đế quốc - họ cũng có trách nhiệm về việc thu thuế cho đế quốc<ref>{{chú thích web|author=Doug Linder |url=http://www.law.umkc.edu/faculty/projects/ftrials/jesus/jesuskeyfigures.html |title=law.umkc.edu |publisher=law.umkc.edu |accessdate=ngày 21 tháng 3 năm 2012}}</ref>, và cũng có những chức năng tư pháp hạn chế. Việc quản lý dân sự khác nằm trong tay của chính phủ địa phương: các hội đồng thành phố hoặc các chính phủ của người dân tộc địa phương, chẳng hạn như ở xứ Judaea và Jerusalem—[[Sanhedrin]] (hội đồng lập pháp) và chủ tịch là [[Thầy cả thượng phẩm]]. Tuy nhiên quyền bổ nhiệm thầy cả thượng phẩm lại nằm trong tay vị khâm sai xứ [[Syria]] hoặc vị tổng trấn xứ Judaea trong thời Pilatus cho tới năm 41 sau Công nguyên. Ví dụ, [[Caiaphas]] được bổ nhiệm làm thầy cả thượng phẩm của [[đền thờ]] do Herod xây, bởi tổng trấn [[Valerius Gratus]] và bị truất phế bởi quan khâm mạng xứ Syria [[Lucius Vitellius]].
 
Thông thường thì Pilatus cư trú tại thành phố Caesarea, nhưng trong thời gian thi hành nhiệm vụ ông đã du hành khắp xứ, đặc biệt là tới [[Jerusalem]]. Trong thời gian [[Lễ Vượt Qua]], một lễ hội rất có ý nghĩa tôn giáo và dân tộc đối với người Do Thái, thì Pilatus - với chức năng thống đốc hay tổng trấn - phải tới Jerusalem để lo vấn đề an ninh trật tự, nhưng ông không xuất hiện thường xuyên trước những đám đông tín đồ Do Thái giáo, để tránh cho họ cảm tưởng là họ lệ thuộc vào đế quốc La Mã.
 
Những người thuộc dòng hiệp sĩ như Pilatus có thể chỉ huy một lực lượng lính quân đoàn La Mã, nhưng chỉ là những đơn vị nhỏ, và vì vậy trong tình huống cần sử dụng quân sự, ông ta sẽ phải nhờ cấp trên của mình - quan khâm sai xứ Syria - người sẽ xuống Palestine cùng đội quân của mình khi cần thiết. Với chức năng thống đốc xứ Judea, Pilatus chỉ có một lực lượng phụ trợ nhỏ gồm những người lính tuyển dụng tại địa phương, đóng quân thường xuyên ở Caesarea và Jerusalem, như ở [[pháo đài Antonia]] (Jerusalem) và tạm thời đóng quân ở bất cứ nơi nào đòi hỏi có sự hiện diện quân sự. Tổng số binh sĩ dưới quyền Pilatus là khoảng 3.000 người<ref>{{chú thích web |title=Administrative and military organization of Roman Palestine |url=http://www.usd.edu/~clehmann/erp/Palestine/administ.htm |accessdate=ngày 24 tháng 12 năm 2008 }}</ref>.
Dòng 53:
Theo các [[Phúc âm]] chính thức thì Pilatus đã chủ tọa buổi xử án chúa Giêsu, và mặc dù ông đã nói rằng bản thân ông không thấy chúa Giêsu có tội gì đáng phải xử tử, nhưng đã xử Người bị đóng đinh vào thập giá. Như vậy, Pilatus là nhân vật then chốt trong cuộc đời chúa Giêsu theo các trình thuật phúc âm.
 
Theo các phúc âm, chúa Giêsu bị [[Sanhedrin]] (Hội đồng lập pháp) trao nộp cho Pilatus, sau khi họ bắt giữ và thẩm vấn Người. Sanhedrin chỉ nhận được các câu trả lời của chúa Giêsu mà họ coi là báng bổ [[luật Moses]], mà dường như sẽ không bị coi là một tội chết bởi Pilatus xử theo luật La Mã<ref>{{chú thích sách|url=http://books.google.com/books?id=ElINAAAAYAAJ&pg=PA92&lpg=PA92&dq=classical+roman+law+blasphemy&source=bl&ots=CyKy2iZbQN&sig=kD9puUh_WZSXd5mBEUYJYoG8c_s&hl=en&sa=X&oi=book_result&resnum=7&ct=result#PPA111,M1 |title=The trial of Jesus: illustrated from Talmud and Roman law – Septimus Buss |publisher=Google Books |accessdate=ngày 21 tháng 3 năm 2012}}</ref>. Phúc âm Luca<ref>{{chú thích web|url=http://www.biblegateway.com/passage/?search=luke%2023:1-2&version=31 |title=Luke 23:1–2 NIV – Then the whole assembly rose and led |publisher=Bible Gateway |accessdate=ngày 21 tháng 3 năm 2012}}</ref> ghi rằng các thành viên của "Sanhedrin" nộp chúa Giêsu cho Pilatus và tố cáo Người tội "xúi giục nổi loạn" chống lại La Mã bằng việc chống đối nộp thuế cho [[Caesar]] và tự xưng mình là vua. Việc khích động chống đối việc nộp thuế là một tội chết<ref>{{chú thích web|url=http://penelope.uchicago.edu/Thayer/E/Roman/Texts/secondary/SMIGRA*/Majestas.html |title=LacusCurtius • Roman Law – Majestas and Perduellio (Smith's Dictionary, 1875) |publisher=Penelope.uchicago.edu |accessdate=ngày 21 tháng 3 năm 2012}}</ref>. Pilatus chịu trách nhiệm về việc thu thuế cho đế quốc La Mã ở xứ Judaea. Chúa Giêsu đã từng yêu cầu người thu thuế Levi (thánh Mátthêu) làm việc ở [[Caphácnaum]] từ bỏ việc làm của mình. Ngài cũng đã ảnh hưởng tới việc trưởng ban thu thuế [[Zakæus]] ở thành [[Jericho]] từ bỏ việc thu thuế <ref>{{cite web|url=http://www.biblegateway.com/passage/?search=Luke%2019:1-9%20;&version=31; |title=Luke 19:1–9; NIV; – Zacchaeus the Tax Collector – Jesus |publisher=Bible Gateway |accessdate=ngày 21 tháng 3 năm 2012}}</ref>. Câu hỏi chính của Pilatus đặt ra cho chúa Giêsu là liệu Ngài có tự coi mình là vua của người Do Thái không, nhằm để đánh giá xem Ngài có là một mối đe dọa chính trị tiềm tàng hay không, và chúa Giêsu đã trả lời: "Chính Ngài nói đó". Câu trả lời này đối với Pilatus là không đủ để coi chúa Giêsu như một mối đe dọa chính trị thực sự. Các thượng tế bắt đầu đưa ra những cáo buộc đối với Chúa Giêsu, nhưng Ngài vẫn im lặng. Pilatus hỏi tại sao ông đã không đáp trả những lời cáo buộc kia, và chúa Giêsu vẫn im lặng, vì vậy Philatô đã "kinh ngạc".
 
Theo Phúc âm Mátthêu thì lúc đang xử án, vợ Pilatus đã sai người tới yêu cầu ông ta đừng nhúng tay vào vụ xử án chúa Giêsu<ref>Phúc âm Mátthêu, đoạn 27, câu 19</ref>. Theo các Phúc âm thì vào dịp [[Lễ Vượt Qua]] - theo luật La Mã - thống đốc sẽ phóng thích một tù nhân, và Pilatus đã cho người Do Thái chọn tha hoặc [[Barabbas]] - một tên tội phạm khét tiếng - hoặc chúa Giêsu; nhưng các thượng tế và các kỳ mục đã xúi đám đông đòi tha Barabbas mà giết chúa Giêsu<ref>Phúc âm Mátthêu đoạn 27, câu 20-24</ref>. Pilatus thấy chúa Giêsu không có tội, nhưng đã miễn cưỡng trao Người cho họ đem đi đóng đinh vào thập gíá.
 
Pilatus ra lệnh làm một tấm biển gắn trên đầu thập giá mang dòng chữ [[INRI]] (''Giêsu thành Nazareth, Vua dân Do Thái'') tỏ ý cho biết lý do sự buộc tội về luật pháp khiến chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá. Các thượng tế Do Thái đã yêu cầu Pilatus: "Xin đừng viết là "Vua dân Do Thái", nhưng hãy viết: "Tên này đã nói "Ta là vua dân Do Thái"<ref>Phúc âm Gioan đoạn 19, câu 22</ref>. Pilatus trả lời: "Ta đã viết thế nào, cứ để vậy" ("Quod scripsi, scripsi"). Đây có thể là để nhấn mạnh quyền tối thượng của La Mã trong việc đóng đinh một vua của người Do Thái; mặc dù vậy, có thể là Pilatus bị xúc phạm khi những thượng tế Do Thái dùng ông như một "người làm vì" để kết án tử hinhhình chúa Giêsu trái với ý muốn của ông ta<ref>Hon. Harry Fogle: [https://www.1215.org/lawnotes/lawnotes/jesustrial.htm The Trial of Jesus] Jurisdictionary Foundation</ref>.
 
Theo [[Phúc âm Luca]] thì các thượng tế Do Thái đã liên tục cáo buộc chúa Giêsu, nhưng Ngài gữgiữ im lặng. Khi biết chúa Giêsu xuất thân từ miền Galilee, Pilatus đã trao chúa Giêsu sang cho vua [[Herod Antipas]] của xứ [[Galilee]] xét xử. Mặc dù lúc đầu Herod rất tò mò muốn gặp chúa Giêsu vì đã nghe nói nhiều về Ngài và mong được xem Ngài làm một vài phép lạ. Herod hỏi chúa Giêsu nhiều điều, nhưng Ngài không trả lời; rốt cuộc ông ta cũng nhạo báng Ngài và trả Ngài lại cho Pilatus xét xử<ref>Phúc âm Luca đoạn 23, câu 7-11</ref>.
 
Không giống như 3 [[phúc âm nhất lãm]], [[Phúc âm Gioan]] đưa ra nhiều chi tiết về cuộc đối thoại giữa Pilatus và chúa Giêsu. Theo Phúc âm Gioan thì chúa Giêsu đã xác nhận Ngài là vua, nhưng vương quốc của Ngài không thuộc về thế gian này<ref>Phúc âm Gioan đoạn 18 câu 33-37</ref>.
Dòng 68:
 
==Pilatus trong văn học Do Thái==
Trong lịch sử biên niên của các thống đốc La Mã ở xứ [[Judea]], các nhà văn Do Thái cổ đại [[Philo]] và [[Josephus]] đã mô tả một số các sự kiện cùng các biến cố xảy ra trong nhiệm kỳ của Pilatus. Cả hai nhà văn này cho biết sự vô cảm của Pilatus đối với phong tục của người Do Thái đã khiến họ gần như nổi dậy chống đối. Josephus lưu ý rằng trong khi các người tiền nhiệm của Pilatus đã tôn trọng phong tục của người Do Thái bằng cách loại bỏ tất cả các hình ảnh và biểu tượng [[đế quốc La Mã]] trên các cờ hiệu của họ khi vào Jerusalem, thì Pilatus lại cho phép binh sĩ của mình mang chúng vào thành phố lúc ban đêm. Khi các công dân của Jerusalem phát hiện ra các cờ hiệu mang hình ảnh, biểu tượng của Caesar vào ngày hôm sau, họ đã yêu cầu Pilatus loại bỏ các cờ hiệu có hình Caesar khỏi thành phố. Sau năm ngày thảo luận, Pilatus đã cho binh lính bao vây những người biểu tình, đe dọa giết họ, nhưng họ sẵn sàng chấp nhận cái chết hơn là mạo phạm "Luật Môise". Cuối cùng Pilatus phải loại bỏ các hình ảnh đó<ref>Josephus, ''Jewish War'' 2.9.2–4</ref><ref>[http://jewishencyclopedia.com/view.jsp?artid=312&letter=P&search=Pilate Jewish Encyclopedia] article on Pilate, retrieved ngày 5 tháng 5 năm 2009</ref>.
 
[[Philo]] mô tả một sự cố tương tự sau này, trong đó Pilatus bị hoàng đế [[Tiberius]] khểnkhiển trách khi làm mếch lòng người Do Thái bằng cách dựng các huy hiệu hình khiên mạ vàng ở dinh của [[Herod]] ở Jerusalem. Các huy hiệu này có vẻ là để tôn vinh Tiberius - và lần này không khắc các hình ảnh. Philo viết rằng các huy hiệu hình khiên được dựng "không có nhiều dụng ý tôn vinh Tiberius, mà để chọc tức đám đông". Ban đầu, người Do Thái phản đối trực tiếp Pilatus về việc dựng các huy hiệu hình khiên này, và sau khi ông ta khước từ, thì họ viết các thư khiếu nại tới Tiberius. Philo cho biết: sau khi đọc các thư của người Do Thái, Tiberius "đã viết thư khiển trách Pilatus về việc vi phạm tiền lệ và yêu cầu ông ta phải gỡ bỏ ngay các huy hiệu nói trên đưa về thành phố Caesarea"<ref name="ReferenceB">Philo, ''On The Embassy of Gauis'' Book XXXVIII 299–305</ref>.
 
Philo cũng mô tả tính khí của Pilatus là "hẹp hòi, cứng ngắc và hay cáu giận", một sự pha trộn của tính "duy ý chí và nghiêm khắc". Ông viết rằng Pilatus sợ người Do Thái sẽ gửi một phái đoàn tới hoàng đế Tiberius để phản đối việc dựng các huy hiệu hình khiên mạ vàng, vì "nếu phái đoàn này tới La Mã thì họ sẽ có thể trình bày những chuyện ăn hối lộ, cướp bóc, lăng mạ, sự tàn bạo và những cuộc xử tử liên tục mà không xét xử cùng sự tàn ác của ông ta"<ref name="ReferenceB"/>.
 
[[Josephus]] thuật lại một cuộc va chạm khác trong đó Pilatus dùng tiền người dân dâng cúng vào Đền Thờ Do Thái để xây một cầu máng (aqueduct). Pilatus cho binh lính của mình lẩn vào đám đông dân Do Thái khi ông ta nói truyệnchuyện với họ, và khi người Do Thái phản đối việc lấy tiền ở Đền Thờ, thì ông ta ra hiệu cho các binh lính đó tấn công, đánh đập và giết những người lên tiếng phản đối, để dập tắt sự phản kháng của người Do Thái <ref>Josephus, ''Antiquities of the Jews'' 18.3.2</ref>.
 
Nhi ệmNhiệm kỳ tổng trấn xứ Judea của Pilatus chấm dứt sau một cuộc va chạm với dân Do Thái do Josephus thậtthuật lại: "Một nhóm đông người [[Samaritan]] được một người vô danh thuyết phục đi tới [[núi Gerizim]] để xem các vật thánh thiêng được cho là do [[Moses]] chôn cất ở đây. Nhưng khi họ đi tới ngôi làng tên là Tirathana - trước khi lên núi - thì Pilatus gửi một phân đội kỵ binh và các lính bộ binh vũ trang hạng nặng tới giết một số người đi đầu, khiến cho đám đông chạy trốn. Nhiều người bị bắt giữ, trong đó Pilatus cho giết các người lãnh đạo của nhóm này"<ref>Josephus, ''Antiquities of the Jews'' 18.4.1</ref>. Sau đó người Samaritan khiếu nại lên [[Lucius Vitellius the Elder|Vitellius]], thống đốc La Mã ở xứ Syria, và ông này gửi Pilatus về La Mã để giải thích vụ việc lên hoàng đế Tiberius. Tuy nhiên, khi Pilatus tới La Mã thì Tiberius đã từ trần<ref>Josephus, ''Antiquities of the Jews'' 18.4.2</ref>.
 
==Pilatus trong các tác phẩm ngụy tác (apocrypha)==
Các Phúc âm chính thức không đưa ra nhiều chi tiết về nhân vật Pilatus, nhưng có nhiều truyền thuyết về Pilatus trong các tác phẩm ngụy tác (không được các Giáo hội công nhânnhận). Sử gia [[Eusebius of Caesarea|Eusebius]] (năm 260/265 - 339/340), trích dẫn các tài liệu không hợp cách (apocryphal accounts), cho biết Pilatus bị thất sủng dưới triều đại [[Caligula]] (năm 37–41 sau Công nguyên), bị lưu đày sang xứ [[Gallia]], sau đó tự tử ở [[Vienne, Isère]]<ref name="ReferenceA"/>. Sử gia [[Agapius of Hierapolis]] ở thế kỷ thứ 10 - trong tác phẩm ''Universal History'' - cũng nói rằng Pilatus tự tử trong năm đầu của triều đại [[Caligula]], năm 37/38 sau Công nguyên<ref>{{chú thích web|title=Agapius, ''Universal History'' trans. A. Vasiliev|date=1909|url=http://www.tertullian.org/fathers/agapius_history_02_part2.htm}}</ref>.
 
Theo một truyền thuyết cổ, thì quê hương của Pilatus là một làng bé nhỏ của thị xã [[Bisenti]], vùng [[Samnium]], nay là vùng [[Abruzzo]] miền trung [[Ý]]<ref name="ReferenceA">Eusebius, ''[[Historia Ecclesiae]] ii: 7''</ref>. Có phế tích của một ngôi nhà La Mã ở Bisenti được cho là nhà của Pontius Pilatus<ref name="Bisenti">{{chú thích web|author=Marcello De Antoniis |url=http://www.bisenti.eu/ilterritorio/cennistorici/index.html |title=Cenni Storici |language=it |publisher=Bisenti.eu |accessdate=ngày 21 tháng 3 năm 2012}}</ref>. Ở [[Scotland]] cũng có một truyền thuyết cho rằng Pilatus sinh tại [[Fortingall]], một ngôi làng nhỏ ở vùng cao nguyên [[Perthshire]]<ref>[http://www.undiscoveredscotland.co.uk/usbiography/p/pontiuspilate.html Undiscoveredscotland.co.uk]</ref> Ngoài ra, có vài nơi khác như [[Tarragona]] ở [[Tây Ban Nha]] và [[Forchheim]] ở [[Đức]] cũng được cho là nơi sinh của Pilatus; tuy nhiên dường như chắc chắn rằng ông ta là một công dân đế quốc La Mã, sinh tại vùng trung Ý<ref>[http://news.bbc.co.uk/1/hi/uk/1273594.stm Pontius Pilate: Man behind the myth]</ref><ref>[http://www.princeton.edu/religiouslife/chapel/worship/2009-2010-sermons/11222009-true-kingship/ Princeton.edu]</ref>.
 
Các chi tiết khác đến từ các nguồn ít đáng tin cậy hơn. Thân xác ông ta, gọi là "Mors Pilati" ("Death of Pilatus"), ban đầu được quăng xuống sông [[Tevere]], nhưng nước sông này bị "xáo trộn bởi linh hồn ma quỷ" nên thân xác ông ta trôi tới [[Vienne, Isère]] và chìm trong sông [[Rhône]]: ngày nay còn một đài kỷ niệm gọi là mộ Pilatus ở [[Vienne, Isère]]<ref>[http://www.ccel.org/ccel/schaff/npnf201.iii.vii.viii.html Chapter VII.—Pilate’s Suicide] at Christian Classics Ethereal Library. (Click on notes 323 and 324 to display both)</ref>.
 
Trong [[Chính thống giáo Đông phương]], bà [[Claudia Procula]]- vợ của Pilatus - được coi là thánh vì theo Phúc âm, bà ta đã yêu cầu chồng đừng nhúng tay vào vụ xử chúa Giêsu<ref>Phúc âm Mátthêu đoạn 27 câu 19</ref><ref name="suscopts.org">{{chú thích web|url=http://www.suscopts.org/q&a/index.php?qid=1120&catid=564 |title=Coptic Orthodox Diocese of the Southern United States – Q&A |publisher=Suscopts.org |accessdate=ngày 21 tháng 3 năm 2012}}</ref>.