Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Nguyên Vỹ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n đã xóa Thể loại:Quân nhân Việt Nam dùng HotCat |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 18:
|công việc khác=
}}
'''Lê Nguyên Vỹ''' (1933-[[1975]]), nguyên là một
==Tiểu sử &
Ông sinh ngày 22
▲Ông sinh ngày 22 Tháng 8 năm 1933 tại [[Sơn Tây]]. Tốt nghiệp Trung học tại Hà Nội.
*Song thân: Cụ Lê Nguyên Liên & Cụ Lê Thị Huệ.
*Phu nhân: Bà Phan Thị Kim Yến. Ông bà có 4 người con: 3 trai, 1 gái (Bà và các con hiện định cư ở Fairfax, Virginia, Hoa Kỳ).▼
Năm 1951:
*''Trường Võ bị Địa phương Trung Việt còn gọi là Trường Võ bị Đập Đá. Vị trí trước đó là Trường Võ bị Quốc gia Huế, đã đào tạo được 2 khoá, sau dời về Đà Lạt đổi tên là Võ bị Liên Quân.
Ra trường, ông được
▲Năm 1951: Nhập ngũ vào '''Quân đội Quốc Gia''', mang số quân: 52/204.567. Theo học khóa 2 (Lê Lợi) trường Võ bị Địa phương Trung Việt, [[Huế]]. Khai giảng: 1-2-1951, mãn khoá: 1-10-1951 (còn gọi là Trường Võ bị Đập Đá. Vị trí trước đó là Trường Võ bị Huế, đã đào tạo 2 khoá, sau dời về Đà Lạt đổi tên là Võ bị Liên Quân). Tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu uý]].
Năm 1953: Đầu năm, ông được cử theo học khoá 1 Biệt kích tại Trung tâm Huấn luyện Biệt
▲Ra trường, ông được làm Trung đội trưởng thuộc Tiểu đoàn (TĐ) 19 VN, đồn trú tại Bạc Liêu do Đại uý [[Đỗ Cao Trí]] làm Tiểu đoàn trưởng (TĐT).
Năm 1954:
▲Năm 1953: Đầu năm theo học khoá 1 Biệt kích tại Trung tâm Huấn luyện Biệt Động đội Vạt Cháy (Bãi Cháy), Hòn Gai, Quảng Yên. Mãn khoá trở về đơn vị gốc (TĐ 19), được thăng cấp [[Trung uý]].
Năm 1955:
▲Năm 1954: TĐ 19 VN giải tán, được dùng làm nòng cốt để thành lập TĐ 6 (ND) vào ngày 1-3-1954. Cùng năm, ông được tuyển chọn đi du học khoá huấn luyện viên ND tại Pau, Pháp.
▲===Quân đội VNCH===
Năm 1961: Ông được hăng cấp [[Thiếu tá]] tại nhiệm. Sau đó được cử đi làm Tiểu đoàn trưởng một Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 8, Sư đoàn 5 bộ binh.
▲Năm 1955: Bị thương trong chiến trận đẩy lui lực lượng Bình Xuyên ra khỏi Trường Trung học Petrus Ký SG. Năm 1956: Thăng cấp [[Đại uý]], theo học lớp BB cao cấp. Mãn khoá về được bổ nhiệm chức vụ Quận trưởng Quận Bến Cát, Bình Dương.
Năm 1968: Tháng 8, ông được thăng cấp [[Trung tá]] lên giữ chức làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 8 bộ binh. Qua giữa năm 1970, ông được thăng cấp [[Đại tá]] tại nhiệm. Sau đó được cử đi du học khoá Chỉ huy và Tham mưu tại Fort Leavenworth, Hoa Kỳ, mãn khoá: 11-6-1971.
*Cùng du học với ông còn có:
#Đại Tá [[Nguyễn Hữu Duệ]] ''(khoá 6 Đà lạt, sau là Tỉnh trưởng Thừa Thiên)
#Trung Tá [[Nguyễn Quang Hưng]] ''(khoá 7 Đà Lạt, sau là Tham mưu trưởng Đại học Chiến tranh Chính trị)
#Trung Tá [[Võ Đại Khôi]] ''(khoá 3 Đà Lạt, sau là Đại tá Tổng cục phó Tổng cục Quân huấn ).
Năm 1971: Giữa năm, ông được cử giữ chức làm
Năm 1973: Ông
*Thời điểm này, các
▲*Đại Tá [[Ngô Hán Đồng]] (CHT PB QĐ I, năm 1972 tử nạn, truy thăng Chuẩn Tướng).
*Tư lệnh phó: Đại Tá [[
*Tham mưu trưởng: Đại Tá [[Từ Vấn]] (khoá 12 Đà Lạt).
*
▲Năm 1971: Giữa năm làm Phó TL SĐ 5 BB. Ông tham gia trong [[trận An Lộc|chiến trường An Lộc]] tử thủ căn cứ chỉ huy. Sau khi chiến thắng, ông được giữ chức vụ CHT Bộ Chỉ huy Chiến thuật Quân đoàn (QĐ) III, và được cử đi du hành thăm viếng Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan).
▲Năm 1973: Ông làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh do Chuẩn Tướng [[Lê Văn Hưng]] làm TL. Cùng năm ông được đề cử làm TL SĐ 5 BB thay thế Chuẩn Tướng [[Trần Quốc Lịch]] đi làm Chánh Thanh Tra QĐ III & QK 3 Chiến thuật.
▲*Thời điểm này, các vị TL phó, Tham mưu trưởng (TMT) và các Trung đoàn trưởng thuộc SĐ 5 như sau:
▲*TRĐT TRĐ 7: Đại Tá [[Nguyễn Văn Vượng]].
▲*TRĐT TRĐ 8: Trung Tá [[Nguyễn Bá Mạnh Hùng]] (sinh 1935 tại SG, tốt nghiệp khoá 10 VBLQĐL, thăng Đại Tá cuối năm 1974).
Năm 1974: Vinh thăng [[Chuẩn Tướng]] tiếp tục làm TL SĐ 5 BB.▼
==1975==
===Tuẫn tiết===
Ngày [[30 tháng 4]] năm [[1975]], sau khi nghe nhật lệnh của [[Tổng Thống]] [[Dương Văn Minh]] kêu gọi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa các cấp buông súng, ai ở đâu thì ở đó và chờ quân [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]] đến bàn giao. Tướng Vỹ ra lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ và cho thuộc cấp giải tán. Sau đó Lê Nguyên Vỹ dùng khẩu Beretta 6.35 bắn vào đầu tự sát ở Bộ Tư Lệnh tại Lai Khê (Bến Cát, Bình Dương).
Hàng 67 ⟶ 61:
Năm 1987: Do Nghĩa trang Hạnh Thông Tây có lệnh giải toả. Hài cốt ông được Thân mẫu (đã ngoài 80 tuổi) cùng với người em là Lê Nguyên Quốc từ miền Bắc vào hợp cùng người anh con ông Bác là Trung Tá Lê Nguyên Hoàng (mới cải tạo về) đến Nghĩa trang Hạnh Thông Tây bốc mộ và hỏa thiêu, đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà tại 151 Lê Lợi thị xã [[Sơn Tây]], miền Bắc VN. Sau đó, tái cải táng xây lăng mộ tại Nghĩa trang của gia tộc ở Sơn Tây.
==Nhận xét==
Tướng '''Lê Nguyên Vỹ''' được đánh giá là một chiến binh quả cảm, một sĩ quan mẫn cán, năng nổ, có tài tham mưu và là một chỉ huỵ bộc trực, thanh liêm, chống tham nhũng. Ông là một trong những vị tướng hiếm hoi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tinh thần tự lực cánh sinh, tinh thần tự trọng cao độ, không bao giờ ỷ lại vào sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ.<ref>[http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=22925]</ref>
==Gia đình==
▲*Phu nhân: Bà
==Chú thích==
{{Tham khảo}}
|