Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cáo tuyết Bắc Cực”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n AlphamaEditor, Excuted time: 00:00:28.0290000 |
|||
Dòng 3:
| status = LC
| status_system = iucn3.1
| status_ref =<ref name="iucn">{{IUCN2008 | assessors = Angerbjörn, A.; Hersteinsson, P.; Tannerfeldt, M. | year = 2008 | title = Alopex lagopus | id = 899 | downloaded = ngày 6
| trend = stable
| image = Alopex lagopus, Asahikawa Asahiyama Zoological Park.jpg
Dòng 15:
| species = '''''V. lagopus'''''
| binomial = ''Vulpes lagopus''
| binomial_authority = ([[Carl Linnaeus|Linnaeus]], [[10th edition of Systema Naturae|1758]])<ref>{{
| synonyms =
* ''Alopex lagopus'' <small>(Linnaeus, 1758)</small>
Dòng 34:
==Thích nghi==
[[
[[
Cáo Bắc Cực sống tại những nơi cực kỳ lạnh giá trên hành tinh nhưng vẫn không bị run cho đến khi nhiệt độ xuống tận {{convert|-70|°C}}. Giúp chúng [[thích nghi]] để sống sót trong cái lạnh là [[lông|bộ lông]] dày, nhiều lớp và có tính cách nhiệt cao,<ref name="smith"/><ref>Claudio Sillero-Zubiri, Michael Hoffmann and David W. Macdonald (eds.) (2004). [http://www.carnivoreconservation.org/files/actionplans/canids.pdf Canids: Foxes, Wolves, Jackals and Dogs]. IUCN/SSC Canid Specialist Group.</ref> một hệ thống [[trao đổi nhiệt ngược chiều]] ở máu tuần hoàn tại bàn chân giúp duy trì nhiệt độ lõi cơ thể, và là một nguồn cung [[cơ mỡ|chất béo dồi dào]]. Loài cáo này có [[tỉ lệ diện tích bề mặt so thể tích]] thấp nhờ có thân hình săn chắc, mõm và chân ngắn, cùng đôi tai ngắn, dày. Càng ít diện tích bề mặt tiếp xúc với cái lạnh Bắc cực đồng nghĩa với việc càng ít nhiệt truyền từ cơ thể ra ngoài không khí. Lông mọc trên lòng bàn chân giúp [[điều hòa thân nhiệt|cách nhiệt]] cũng như bước đi trên băng tuyết. Cáo Bắc Cực có [[thính giác]] cực nhạy định vị chính xác nơi những con vật nhỏ đang chuyển động dưới tuyết. Khi nắm bắt được vị trí con mồi, sẽ lao tới và vồ lấy nạn nhân xuyên qua lớp tuyết. Lông đổi màu theo mùa: đa số sẽ có màu trắng vào mùa đông để ẩn mình dưới tuyết trong khi vào mùa hạ sẽ có màu xám - nâu hoặc nâu sẫm. Tuy nhiên, trong vài quần thể, vài cá thể đôi khi sẽ có lông xám pha chút xanh nhạt vào mùa đông và trở nên nhạt hơn trong mùa hè.<ref name="smith">''Alopex lagopus'' at the [http://www.mnh.si.edu/mna/image_info.cfm?species_id=2 Smithsonian]</ref><ref>[http://www.env.gov.nl.ca/env/snp/programs/education/animal_facts/mammals/arctic_fox.html Arctic Fox ''Alopex lagopus'']. Department of Environment and Conservation, Government of Newfoundland and Labrador</ref>
Dòng 52:
==Sinh sản==
Cáo Bắc Cực có xu hướng hình thành cặp đơn giao phối, một cái – một đực, trong mùa sinh sản và duy trì một phần lãnh thổ xung quanh hang. Giao phối thường diễn ra từ tháng 4 đến tháng 5 và [[thai kỳ]] kéo dài khoảng 52 ngày. Trung bình một lứa, cáo cái đẻ từ 5 đến 8 cáo con nhưng đặc biệt có thể nhiều đến 25 con non (lứa đẻ nhiều nhất trong cả bộ [[Carnivora]]).<ref>{{
==Khẩu phần==
Cáo Bắc Cực nhìn chung sẽ ăn thịt bất kỳ động vật nhỏ mà chúng tìm thấy, bao gồm [[chuột Lemming]], [[chuột đồng]], [[gặm nhấm]] khác, [[thỏ đồng]], [[chim]], [[trứng (thức ăn)|trứng]] và cả [[xác thối]]. Chúng tìm ăn xác mồi chết dư thừa từ kẻ săn mồi lớn hơn như [[sói]] hay [[gấu trắng Bắc Cực]] và khi thức ăn khan hiếm, cáo thậm chí còn ăn [[phân]] của mình. Ở khu vực cáo sinh sống, [[chuột Lemming]] là con mồi phổ biến nhất<ref name=NOAA/> và một gia đình nhà cáo có thể ăn hàng tá chuột Lemming mỗi ngày. Tại vài điểm thuộc Bắc Canada, một lượng lớn chim di cư kéo đến theo mùa cũng là nguồn cung thức ăn dồi dào. Trên bờ biển Iceland hay những đảo khác, thức ăn chủ yếu cũng là chim. Suốt tháng 4 và tháng 5, cáo Bắc Cực còn săn [[hải cẩu đeo vòng]] non khi mà cáo con còn trong hang tuyết và chưa thể tự săn mồi. Cá bơi dưới băng cũng là 1 phần của chế độ ăn, cáo còn ăn [[quả mọng]] và [[rong biển]], do đó chúng được xem là loài [[động vật ăn tạp]].<ref name="Bockstoce2009">{{
==Kích thước==
Dòng 67:
}}
Chiều dài trung bình từ phần đầu đến hết thân của cáo đực {{convert|55|cm|abbr=on}}, với khoảng từ {{convert|46|to|68|cm|abbr=on}}, trong khi cáo cái trung bình {{convert|52|cm|abbr=on}} với khoảng từ {{convert|41|to|55|cm|abbr=on}}.<ref name="smith"/><ref name="NG">{{
==Phân loại==
''Vulpes lagopus'' là loài 'cáo thực sự' thuộc [[chi (sinh học)|chi]] ''[[Vulpes]]'' của [[tông (sinh học)|tông]] cáo [[Vulpini]]. Loài được liệt vào [[phân họ]] [[Caninae]] thuộc [[họ (sinh học)|họ]] hữu nhũ [[Canidae]]. Mặc dù trước đó cáo Bắc Cực được xếp riêng biệt vào [[chi (sinh học)|chi]] đơn diện ''Alopex'', nhưng gần đây những bằng chứng về [[di truyền học]] khiến loài được xếp vào chi ''Vulpes'' cùng với phần lớn những loài cáo khác.<ref name=msw3/><ref name=complete>{{cite journal|title=Building large trees by combining phylogenetic information: a complete phylogeny of the extant Carnivora (Mammalia)|journal=Biol. Rev.|year=1999|first=ORP|last=Bininda-Emonds|author2=JL Gittleman|author3=A Purvis|volume=74|issue=2|pages=143–175 |url=https://www.researchgate.net/publication/227622637_Building_large_trees_by_combining_phylogenetic_information_a_complete_phylogeny_of_the_extant_Carnivora_%28Mammalia%29|accessdate=ngày 30
{{clade | style = font-size: 90%;line-height:50%
Dòng 122:
==Phân bố và môi trường sống==
Cáo tuyết phân bố gần miền cực và sinh sống trong môi trường lãnh nguyên Bắc cực ở Bắc Âu, Bắc Á và Bắc Mỹ. Phạm vi gồm có Greenland, Iceland, Fennoscandia, [[Svalbard]], [[Jan Mayen]] và vài đảo khác ở [[biển Barents]], bắc Nga, nhiều đảo ở [[biển Bering]], [[Alaska]] và Canada xa về phía nam [[vịnh Hudson]]. Trong những năm cuối thế kỷ XIX, được du nhập vào [[quần đảo Aleut]] phía tây nam của Alaska. Cáo chủ yếu sống ở vùng lãnh nguyên và [[tảng băng trôi]] nhưng cũng có mặt trong rừng [[taiga]] ở Canada và [[bán đảo Kenai]] ở Alaska. Chúng được tìm thấy ở độ cao lên đến {{convert|3000|m|abbr=on}} trên mực nước biển và đã được nhìn thấy trên băng biển gần với [[Bắc Cực]].<ref name=Feldhamer>{{
Cáo Bắc Cực là động vật có vú duy nhất có nguồn gốc từ Iceland.<ref name="Iceland">{{
==Tình trạng bảo tồn==
Dòng 130:
Tình trạng bảo tồn loài cáo này nói chung tốt và ước tính có khoảng vài ngàn cá thể trong tổng số. [[IUCN]] đánh giá là "[[loài ít quan tâm]]".<ref name="iucn"/> Tuy nhiên quần thể tại lục địa Scandinavian có nguy cơ tuyệt chủng, mặc dù được bảo vệ hợp pháp khỏi săn bắn và bức hại trong nhiều thập kỷ. Ước tính số cáo trưởng thành trong tất cả các nước Na Uy, Thụy Điển và Phần Lan ít hơn 200 cá thể.<ref name=NOAA/>
Sự phong phú của cáo tuyết có xu hướng dao động trong một chu kỳ cùng với số chuột lemming và [[chuột đồng]] (một chu kỳ từ 3 đến 4 năm).<ref name=truett/> Quần thể đặc biệt dễ bị đe dọa nhiều năm khi số con mồi giảm sút, và nạn săn thú không kiểm soát được gần như loại trừ hai phân loài.<ref name=NOAA>{{
Da cáo có màu xanh xám đen - một biểu hiện của [[gen lặn]] - đặc biệt có giá trị. Chúng được vận chuyển đến nhiều nơi khác nhau trước cả cáo hoang [[quần đảo Aleut]] trong những năm 1920. Chương trình đã thành công khi gia tăng số lượng cáo lông xanh, nhưng con mồi là [[ngỗng Canada Aleutian]] mâu thuẫn với mục tiêu bảo tồn loài cáo<ref>{{
Cáo tuyết biến mất tại vùng đất có loài [[cáo đỏ]] lớn hơn. Điều này đã được quy cho [[biến đổi khí hậu]] - giá trị ngụy trang của bộ lông sáng giảm đáng kể khi tuyết ít phủ.<ref name="Hannah2010">{{
Cũng như nhiều loài săn khác, nguồn dữ liệu tốt nhất thống kê quy mô số lượng lớn và lịch sử đang săn tìm hồ sơ túi và bảng câu hỏi. Một số nguồn tiềm năng của lỗi trong bộ sưu tập dữ liệu đó.<ref name=G_and_E>{{
Số lượng thế giới không bị đe dọa, nhưng hai nhóm quần thể cáo tuyết đang có. Một là tại [[đảo Medny]] ([[quần đảo Commander]], Nga), giảm khoảng 85-90%, khoảng 90 loài động vật, là kết quả của [[bệnh ghẻ lở]] gây ra bởi ve ký sinh tai từ chó du nhập trong những năm 1970.<ref name=Goltsman>{{cite journal | author = Goltsman, M.| year = 1996 | last2 = Kruchenkova | first2 = E. P. | last3 = MacDonald | first3 = D. W. | title = The Mednyi Arctic foxes: treating a population imperilled by disease | journal = Oryx | volume = 30 | pages = 251–258 | doi = 10.1017/S0030605300021748 | issue = 4}}</ref> Số lượng hiện đang được điều trị bằng thuốc chống ký sinh trùng, nhưng kết quả vẫn chưa chắc chắn.
Quần thể khác bị đe dọa là một trong [[Fennoscandia]] (Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan và [[bán đảo Kola]]). Số này giảm mạnh bắt đầu thế kỷ 20 do kết quả của giá cả lông cáo cực cao, gây ra săn bắn tràn lan làm quần thể giảm sút.<ref name=Lönnberg>{{
Cáo tuyết được phân là một "sinh vật ngoại lai bị cấm" dưới [[luật cấm chất độc hại và sinh vật ngoại lai năm 1996]] của New Zealand nhằm ngăn chặn loài cáo này nhập khẩu vào đất nước.<ref>{{Cite journal| url=http://legislation.govt.nz/act/public/1996/0030/latest/DLM386556.html#DLM386556|title=Hazardous Substances and New Organisms Act 2003 – Schedule 2 Prohibited new organisms|publisher=New Zealand Government|accessdate=ngày 26
== Tham khảo ==
|