Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: sửa chính tả 3, replaced: Quân Đoàn → Quân đoàn (2) using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 7:
| nơi sinh = [[Huế]], [[Việt Nam]]
| nơi ở = [[Houston]], [[Texas]]
| ngày chết = [[8 tháng 011]] năm, [[2009]] (83 tuổi)
| nơi chết = [[Houston]], [[Texas]]
| chức vụ = [[Tổng tham mưu trưởng [[Quân lực Việt Nam Cộng Hòa]]
| bắt đầu = [[29 tháng 4]] năm, [[1975]]
| kết thúc = [[30 tháng 4]] năm, [[1975]]
| tiền nhiệm = [[Cao Văn Viên]]
| kế nhiệm = ''chức vụ bãi bỏ''
| địa hạt = [[Quân lực Việt Nam Cộng Hòa]]
| phó tổng thống =
| phó chức vụ =
| phó viên chức =
| chức vụ 2 = Tư lệnh chỉ[[Quân đoàn II (Việt Nam huyCộng hòa)|Quân đoàn II]]
| bắt đầu 2 = [[25 tháng 6]] năm, [[1965]]
| kết thúc 2 = [[23 tháng 2]] năm, [[1968]]
| tiền nhiệm 2 = [[Nguyễn Hữu Có]]
| kế nhiệm 2 = [[Lữ Mộng Lan]]
| địa hạt 2 = [[Tây Nguyên]]
| phó chức vụ 2 =
| phó viên chức 2 =
Dòng 31:
| nghề nghiệp = [[Quân nhân]]
| giáo dục =
| học trường = Trường Thiết Giápgiáp Saint Saumur, Pháp
| dân tộc = [[người Việt Nam|Việt Nam]]
| đạo = [[đạo Phật|Phật]]
| họ hàng =
| cha hoặc mẹ = Bửu Hội
| vợ = Nguyễn Thị Minh Hiếu
| chồng =
| kết hợp dân sự =
Dòng 43:
| chú thích =
| chữ ký =
| phục vụ = [[Việt Nam Cộng Hòahòa]]
| thuộc =[[Quân đội Quốc gia Việt Nam]]<br>[[Quân lực Việt Nam Cộng Hòahòa]]
| năm tại ngũ = [[1950]] - [[1975]]
| cấp bậc = [[Danh sách Trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Trung tướng]]
| đơn vị =
| chỉ huy =Quân đoàn II
| tham chiến =[[Chiến tranh Việt Nam]],<br>[[Sự kiện Tết Mậu Thân]]
| khen thưởng =}}
 
'''Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc''' (1926<ref>Theo học giả Nguyễn Kỳ Phong thì ông sinh ngày [[23 tháng 10]] năm 1923.</ref>-2009), ''(thường được gọi tắt là [['''Vĩnh Lộc]])'' nguyên', một cựu tướng lĩnh của [[Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Quân Lực Việt Nam Cộng hòa]], mang quân hàm [[Trung tướng]]. Xuất thân từ trường Võ bị Pháp. Chuyên môn Quân sự của ông là ngành Thiết giáp. Ông là người giữ chứcvị Tổng Tham mưu trưởng cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, vớiđồng thời giancũng tồnlà người có thời gian tại nhiệm ngắn nhất ''(chỉ tại chức vàotrong ngày [[29/4/1975)''. Ôngtháng 4]] mộtnăm thời1975. tựTrước xưngđó, ông chúa tểthời Caogian nguyêngiữ ''(khichức còn đương chứcvụ Tư lệnh Quân đoàn II & Vùng 2 chiến thuật (1965-1968)., được mệnh danh là Chúa tể Cao nguyên, nhiều tai tiếng tham nhũng có cuộc sống xa hoa như một Lãnh chúa thời phong kiến)''.
==Tiểu sử==
Ông sinh vào tháng 10/1923 tại Huế trong một gia đình thuộc Hoàng phái nhà Nguyễn ''(chữ Vĩnh trong tên của ông được đặt theo bài "Đế hệ thi" của Vua [[Minh Mạng]], cũng đồng nghĩa ông là anh em cùng hệ và ngang vai với Vua [[Bảo Đại]] "Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ")''.
 
==Thân thế==
Ông học rất khá, tốt nghiệp chương trình Trung học và đậu bằng Tú tài Pháp. Ngoài ra, ông rất thông thạo Pháp ngữ.
ÔngTheo sinhbản vàovăn cáo phó của gia đình thì ông sinh thángnăm 10/19231926 tại Huế trong một gia đình thuộc Hoàng phái nhà Nguyễn. ''(chữChữ Vĩnh trong tên của ông được đặt theo bài "[[Đế hệ thi]]" của Vuavua [[Minh Mạng]], cũngcho đồng nghĩathấy ông là anh em cùng hệ và ngang vai về với Vuavua [[Duy Tân]] và vua [[Bảo Đại]]. "Nguyễn Phúcmột Vĩnhtín Thuỵ")đồ [[Phật giáo]], ông còn có pháp danh là '''Minh Tâm'''.
==Binh nghiệp==
Năm 1950: Ông nhập ngũ vào '''Quân đội Liên hiệp Pháp''', theo học Trường Võ bị tại Pháp, có số quân: 43/200.608. Tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]]. Ra trường, về nước sát nhập vào '''Quân đội Quốc gia''' được cử làm sĩ quan cận vệ cho Quốc Trưởng Bảo Đại.
 
Thân phụ của ông là hoàng thân Bửu Hội, từng làm quan dưới triều vua [[Khải Định]].<ref name="nguyenkyphong">Dẫn theo Nguyễn Kỳ Phong. Tham khảo tài liệu: American Ambassy Saigon, ''Biographic Data on Lieutenant General Vinh Loc, Deputy General Inspector, Republic of Vietnam Armed Forces'', Defense Intelligence Agency, ''Lieutenant General Vinh Loc, Army Republic of Vietnam''.</ref> Thời niên thiếu, do điều kiện gia đình, ông được thụ hưởng một nền giáo dục cơ bản rất tốt. Từng theo học tại trường Trung học Khải Định,<ref name="nguyenkyphong" /> ông được nhận xét là có học lực rất khá. Ngoài ra, ông rất thông thạo Pháp ngữ.
Năm 1951: Trưởng phòng Liên lạc Việt-Pháp thuộc Việt binh đoàn ở Huế, cùng năm du học khoá Thiết giáp tại Trường Kỵ binh Saumur Pháp.
 
==Binh nghiệp trong Quân đội Quốc gia Việt Nam==
Năm 1952: Ông được thăng cấp [[Trung úy]] làm Trung đội trưởng thuộc Đại đội 1 Thám thính đồn trú tại Cần Thơ do Đại úy [[Quách Sến]] chỉ huy ''(Đại úy Sến tốt nghiệp Võ bị Đà Lạt K1, sau là Đại tá Đổng lý văn phòng thuộc Bộ Quốc phòng)''. Tháng 8, làm Đại đội trưởng Đại đội 3 Thám thính đồn trú tại Gia Lâm thay thế Đại úy [[Lâm Văn Phát]] ''(sau là Trung tướng)''.
Tuy nhiên, việc học hành của ông bị gián đoạn một thời gian do thời cuộc chiến tranh. Mãi sau khi người Pháp tái chiếm Đông Dương, ông mới tiếp tục việc học và tốt nghiệp chương trình Trung học, đậu bằng Tú tài Pháp.
 
Sau khi Cựu hoàng Bảo Đại về nước và thành lập chính phủ [[Quốc gia Việt Nam]], năm 1949, ông nhập ngũ vào Quân đội Liên hiệp Pháp, được cử vào học khóa sĩ quan tại trường sĩ quan An Cựu, Huế (''École des Cadres de An Cuu''),<ref name="nguyenkyphong" /> tốt nghiệp với cấp bậc [[Thiếu úy]]. Sau khi ra trường, tháng 9 năm 1950, ông được cử sang Pháp thụ huấn tại trường Thiết giáp binh Saumur.<ref name="nguyenkyphong" /> Cùng học với ông khóa này có một Trung úy trẻ người Việt tên [[Lâm Văn Phát]].
Năm 1953: Thăng cấp [[Đại úy]] đặc cách tại mặt trận.
 
Tháng 8 năm 1951, ông về nước, ban đầu được cử làm Trưởng phòng Liên lạc Việt-Pháp thuộc [[Việt binh đoàn]] ở Huế, sau đó được điều động làm sĩ quan cận vệ cho Quốc trưởng [[Bảo Đại]]. Năm 1952, ông được thăng cấp [[Trung úy]] và chuyển ngạch sang phục vụ trong Quân đội Quốc gia Việt Nam, được điều động làm Trung đội trưởng thuộc Đại đội 1 Thám thính đồn trú tại [[Cần Thơ]]. Tháng 8 năm đó, ông được chuyển sang làm Đại đội trưởng Đại đội 3 Thám thính đồn trú tại [[Gia Lâm]], thay thế người bạn đồng học cũ là Đại úy [[Lâm Văn Phát]]. Năm 1953, ông được đặc cách thăng [[Đại úy]] tại mặt trận.
Năm 1954: Tháng 11, thăng cấp [[Thiếu tá]] làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Kỵ binh.
==Quân đội Việt Nam Cộng hòa==
Năm 1955: Tháng 10, bàn giao Trung đoàn cho Thiếu tá [[Hoàng Xuân Lãm]] ''(sau là Trung tướng)'' để đi du học khoá Chỉ huy & Tham mưu tại Fort Laevenworth, Hoa Kỳ. Về nước, ông nhận công tác phục vụ tại Trường Đại học Quân sự.
 
==Lận đận trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa==
Năm 1959: Ông được thăng cấp [[Trung tá]], nhận chức Chỉ huy trưởng Trường Thiết giáp tại Liên trường Võ khoa Thủ Đức thay thế Thiếu tá [[Lương Bùi Tùng]] ''(sau là Đại tá phụ tá Đặc biệt Bộ chỉ huy Thiết giáp Trung ương)''
Sau khi [[Hiệp định Genève, 1954]] được ký kết, tháng 11 năm 1954, ông được thăng cấp [[Thiếu tá]], được cử là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Kỵ binh,<ref name="nguyenkyphong" /> chỉ huy đơn vị di chuyển vào Nam.
 
Mặc dù là người hoàng tộc, từng là sĩ quan cận vệ cho Quốc trưởng Bảo Đại, nhưng ông đứng ngoài cuộc tranh giành quyền lực giữa lực lượng ủng hộ Quốc trưởng và Thủ tướng [[Ngô Đình Diệm]]. Tháng 6 năm 1955, ông được điều động khỏi chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1 Kỵ binh để đi du học khóa Chỉ huy & Tham mưu tại Fort Laevenworth, Hoa Kỳ.<ref name="nguyenkyphong" />
Năm 1961: Được cử giữ chức Tham mưu trưởng Liên trường Võ khoa do Thiếu tướng [[Hồ Văn Tố]] làm Chỉ huy trưởng.
 
Sau khi về nước tháng 6 năm 1956, ông vẫn tiếp tục phục vụ trong [[Quân đội Việt Nam Cộng hòa]]. Mặc dù vậy, ông vẫn gặp nhiều nghi kỵ từ phía Tổng thống Ngô Đình Diệm do mối liên hệ hoàng tộc. Vì vậy, ông được bổ nhiệm công tác phục vụ tại Trường Đại học Quân sự, một chức vụ không có thực quyền.
Đầu năm 1962: Làm Chỉ huy phó Liên trường Võ khoa thay thế Đại tá [[Phan Đình Thứ]] tự [[Lam Sơn]]. Tháng 2 cùng năm, sáng lập và Chỉ huy trưởng đầu tiên Trung tâm Huấn luyện Quốc gia Vạn Kiếp ở Bà Rịa.
 
NămTrong 1963:những Ngàynăm sau 1/11đó, chỉđường huyhoạn Chiếnlộ đoànông Vạnkhá Kiếpchậm thamchạp. giaNăm cuộc đảo chính Tổng thống Diệm1959, ngày 2/11 được thăng cấp [[ĐạiTrung tá]], bànnhận giaochức TrungChỉ tâmhuy Vạntrưởng KiếpTrường choThiết Trunggiáp tại [[LýLiên Tháitrường Như]] ''(giảikhoa ngũThủ Đức. cấpNăm Đại1961, tá)''được đểcử nhậngiữ chức Tham mưu phótrưởng Liên quântrường tại Bộ Tổng tham mưukhoa. CuốiĐầu năm 1962, Chỉ huy trưởngphó BộLiên chỉtrường huy Thiếtkhoa. giápĐến Trungtháng ương2 thaycùng thếnăm, Đạitrở thành [[NguyễnChỉ Vănhuy Thiện]]trưởng ''(sauđầu lêntiên Chuẩncủa tướng[[Trung bịtâm tửHuấn nạnluyện phiQuốc gia khiVạn bayKiếp]] từ Đà[[Bà Nẵng về Sài Sòn dự lễ gắn lon)''Rịa]].
*''Kể từ cuộc đảo chính 1-11-1963 đường công danh của tướng Vĩnh Lộc được mở rộng và sáng sủa lên.''
 
==Thăng tiến trong mùa đảo chính==
Năm 1964: Bàn giao Bộ chỉ huy Thiết giáp cho trung tá [[Nguyễn Đình Bảng]] ''(sau là Đại tá)'' nhận nhiệm vụ Tư lệnh Sư đoàn 9 bộ binh thay thế Đại tá [[Đoàn Văn Quảng]] đi làm Chỉ huy trưởng Biệt Động Quân Vùng 3 Chiến thuật. Tháng 8 cùng năm vinh thăng [[Chuẩn tướng]].
Do bất mãn bị kỳ thị, qua sự tác động của Đại tá [[Đỗ Mậu]], ông sớm ngả về các tướng lĩnh âm mưu đảo chính lật đổ Tổng thống Diệm. Từ đầu tháng 10 năm 1963, tư cách Chỉ huy trưởng Trung tâm Vạn Kiếp, ông đã cho thành lập một đơn vị cấp tiểu đoàn, gồm các sĩ quan huấn luyện và các học viên có kinh nghiệm, luôn ở trạng thái sẵn sàng đợi lệnh hành quân đột xuất.<ref name="antg.cand.com.vn" >[http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Chien-doan-ma-trong-vu-dao-chinh-Ngo-Dinh-Diem-406841/ Chiến đoàn “ma” trong vụ đảo chính Ngô Đình Diệm]</ref>
 
Ngay sau khi cuộc [[Đảo chính Việt Nam Cộng hòa 1963|đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963]] nổ ra, ông chỉ huy đoàn xe thiết giáp của Trung tâm Vạn Kiếp từ Bà Rịa tiến vào [[Sài Gòn]] qua hướng cầu Phan Thanh Giản (nay là cầu Điện Biên Phủ), hỗ trợ quân đảo chính giữ Đài phát thanh. Chiều ngày [[2 tháng 11]], ông chỉ huy Chiến đoàn Vạn Kiếp, một lực lượng hỗn hợp gồm tiểu đoàn học viên của Trung tâm Vạn Kiếp, Tiểu đoàn 6 Nhảy dù và Chi đoàn 1 Thiết giáp thuộc Thiết đoàn 1 Kỵ binh, hỗ trợ quân đảo chính đánh chiếm [[thành Cộng Hòa]].<ref name="antg.cand.com.vn" />
Năm 1965: Cuối tháng 5, bàn giao Bộ tư lệnh Sư đoàn 9 cho Đại tá [[Lâm Quang Thi]] ''(nguyên Tư lệnh phó Sư đoàn 7 bộ binh, sau cùng là Trung tướng)''. Đi nhận chức Tư lệnh Biệt khu Thủ Đô. Trung tuần tháng 6 cùng năm, bàn giao Biệt khu Thủ đô lại cho Thiếu tướng [[Lê Nguyên Khang]] ''(đương nhiệm Tư lệnh Sư đoàn Thuỷ quân Lục chiến)'' kiêm nhiệm. Cùng ngày ông được vinh thăng [[Thiếu tướng]]. Ngày 25/6 được cử làm Tư lệnh Quân đoàn II & Vùng 2 Chiến thuật thay thế Thiếu tướng [[Nguyễn Hữu Có]].
Năm 1966: Ông được vinh thăng [[Trung tướng]] tại nhiệm.
 
Nhờ công lao này, ngay tối ngày [[2 tháng 11]] năm 1963, ông được các tướng lĩnh chỉ huy đảo chính thăng lên cấp [[Đại tá]], bổ nhiệm vào chức vụ Tham mưu phó Liên quân tại Bộ Tổng tham mưu. Không đầy 1 tháng sau, ông được [[Hội đồng Quân nhân Cách mạng (Việt Nam Cộng hòa)|Hội đồng Quân nhân Cách mạng]] chỉ định vào chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Thiết giáp Trung ương. Đường công danh của ông rạng rỡ từ đây.
 
Sau khi tướng [[Nguyễn Khánh]] tiến hành cuộc [[Cuộc chỉnh lý tại Việt Nam Cộng hòa 1964|chỉnh lý]] tước quyền các tướng lĩnh cầm đầu Hội đồng Quân nhân Cách mạng, tháng 2 năm 1964, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh [[Sư đoàn 9 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 9 Bộ binh]]<ref name="nguyenkyphong" />, kiêm Tư lệnh Biệt khu 41, bao gồm các tỉnh Vĩnh Long, Sa Đéc, Kiến Phong (Đồng Tháp). Nhằm tranh thủ sự ủng hộ từ phía ông, ngày [[11 tháng 8]] năm 1964, tướng Khánh đã thăng cấp cho ông và 7 đại tá khác lên cấp bậc [[Chuẩn tướng]] vừa được đặt ra.
 
Với việc thăng lên cấp bậc tướng, ông trở thành một thành viên của Hội đồng Quân nhân Cách mạng. Mặc dù Hội đồng Quân nhân Cách mạng đã tuyên bố chấm dứt hoạt động chỉ 2 tháng sau đó, nhưng trên thực tế các tướng lĩnh tập hợp một cơ chế lãnh đạo chính trị riêng, từ đó hình thành [[Hội đồng Quân lực (Việt Nam Cộng hòa)|Hội đồng Quân lực]]. Với cơ chế này, ông cùng các tướng trẻ khác được mệnh danh là "nhóm tướng trẻ" (''Young Turks''),<ref name="nguyenkyphong" /> từng bước thâu tóm quyền lực mà đỉnh điểm là việc phế truất tướng Nguyễn Khánh và ép tướng Khánh phải lưu vong.
 
Cuối tháng 5 năm 1965, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh [[Biệt khu Thủ đô]]. Khi chính phủ do tướng [[Nguyễn Văn Thiệu]] làm Chủ tịch [[Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia (Việt Nam Cộng hòa)|Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia]] và tướng [[Nguyễn Cao Kỳ]] làm Chủ tịch [[Ủy ban Hành pháp Trung ương (Việt Nam Cộng hòa)|Ủy ban Hành pháp Trung ương]] ra đời, ngày [[25 tháng 6]] năm 1965, ông được cử đi làm Tư lệnh Quân đoàn II & Vùng 2 Chiến thuật. Ngày [[19 tháng 11]] năm 1965, ông được thăng cấp [[Thiếu tướng]]; đến tháng 10 năm 1966, được thăng [[Trung tướng]] tại nhiệm.<ref name="nguyenkyphong" />
 
==Biến động Cao nguyên==
Ngay khi vừa nhận chức Tư lệnh Quân đoàn II & Vùng 2 Chiến thuật, tướng Vĩnh Lộc đương đầu ngay với vụ nổi dậy của các thành viên vũ trang của [[FULRO]], khởi đầu từ các binh sĩ thuộc lực lượng [[Dân sự chiến đấu]] (''Civilian Irregular Defense Group'' – '''CIDG''') ở trại Sarpa ở buôn Daksak, thuộc quận Đức Lập, tỉnh Quảng Đức, lan ra tận các tỉnh Darlac và Pleiku. Ngày [[29 tháng 7]] năm 1965, 200 lính FULRO đã vượt biên giới tấn công đánh chiếm đồn Buôn Briêng. Một nhóm khác chiếm đóng Buôn Buor (Đarlac) và khống chế một cây cầu trên quốc lộ 14. Ngay lập tức, ông ra lệnh cho [[Sư đoàn 23 Bộ binh Quân lực Việt Nam Cộng hòa|Sư đoàn 23]] và một số Tiểu đoàn [[Lực lượng Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa|Biệt Động Quân]] cùng Thiết giáp hành quân giải tỏa. Ngày 2 tháng 8 năm 1965, lực lượng FULRO tại đồn Buôn Briêng rút lui và đem theo 181 binh lính Dân sự Chiến đấu người Thượng. Ngày [[15 tháng 9]] năm 1965, 500 lính FULRO chiếm giữ Buôn Buor ra hàng.
 
Từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 12 năm 1965, lực lượng FULRO lại tấn công đồn Phú Thiện sát hại 32 người và làm bị thương 26 người khác; chiếm đồn Krong Pách, giết hết binh sĩ người Kinh; đột nhập tòa hành chính và Tiểu khu Quảng Đức, giết hết người Kinh, treo cờ FULRO. Với binh lực trong tay, tướng Vĩnh Lộc hoàn toàn có thể trấn áp quân bạo loạn. Tuy nhiên, do sự can thiệp của Đại sứ quán Mỹ, các nhóm vũ trang của FULRO do đó luôn có thể đưa ra yêu sách ngừng bắn khi hết đạn và rút qua biên giới sang Campuchia. Vì vậy, tướng Vĩnh Lộc một mặt vẫn cho thực hiện các cuộc hành quân trấn áp, mặt khác qua các cuộc tiếp xúc với đại diện FULRO, lắng nghe những đòi hỏi của họ, và hứa sẽ nhượng bộ một số yêu cầu.
 
Từ giữa năm 1965, các hoạt động chính trị và quân sự của FULRO không còn là tâm điểm chú ý của tướng Vĩnh Lộc khi mà ông phải đối mặt với một đối thủ mạnh hơn nhiều: [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam]].
 
==Sự kiện Mậu Thân 1968==
Năm 1968: Ông bị cách chức và bàn giao Bộ tư lệnh Quân đoàn II lại cho Thiếu tướng Lữ Mộng Lan,<ref name=ob>Tucker, pp. 526&ndash;533.</ref> (kết quả của sự thất bại của ông trong Tết Mậu Thân.
*''Sự kiện tết Mậu Thân (1968), ông đã ra lệnh cho chỉ huy các đơn vị không được rời nhiệm sở để đề phòng bất trắc nhưng ông vẫn bất chấp ngang nhiên bay về Sài Gòn ăn tết. Vì Vậy [[Pleiku]] cũng như nhiều đô thị khác, cũng bị [[Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam|quân Giải phóng]] tấn công. Sau khi ăn tết xong, ông vẫn không chịu về nhiệm sở mà về tư dinh của mình).''
 
==Vị tướng không quân==
Vì vậy ông bị triệu hồi về Bộ Tổng tham mưu ''(diện ngồi chơi xơi nước)'' làm Phụ tá Tổng tham mưu trưởng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn.
 
Năm 1969: Được cử làm Chỉ huy trưởng Trường Cao đẳng Quốc phòng sau khi bàn giao Tổng cục Quân huấn lại cho Thiếu tướng [[Phan Trọng Chinh]].
 
Đến năm [[1973]], Ông lại bị Tổng thống [[Nguyễn Văn Thiệu]] tước sạch mọi chức vụ vì lý do, trong một chuyến công du [[Thổ Nhĩ Kỳ]], ông đã tự ý bay sang [[Pháp]] để liên lạc với cựu hoàng Bảo Đại.
 
==1975==
==Tổng tham mưu trưởng cuối cùng==
Sáng ngày [[29 tháng 4]] năm [[1975]], ông lại được tân Tổng thống [[Dương Văn Minh]] chỉ định làm Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Nhậm chức, ông đã lớn tiếng hô hào quân sĩ sát cánh tử thủ đến cùng. Nhưng chỉ chưa đầy một ngày, sáng ngày [[30 tháng 4]] năm [[1975]], ông đã vội tháo bỏ hết quân phục, xuống bến [[Bạch Đằng]] lên một chiến hạm nhỏ lưu vong ra nước ngoài.<ref>[http://antg.cand.com.vn/vi-vn/tulieu/2012/1/77266.cand Ba đào tình ái Tết Mậu Thân của tướng Sài Gòn Vĩnh Lộc]</ref>
 
==Cuộc sống lưu vong==
Ông cùng gia đình ''(nữ danh ca [[Minh Hiếu]] đã là "chính thất" của ông từ ngày ông còn là Tư lệnh Quân đoàn II)'' sang định cư tại Houston, Texas, Hoa Kỳ.
Sau khi lưu vong, ông cùng gia đình đã đến định cư tại Houston, Texas, Hoa Kỳ.
 
Ngày [[8- tháng 1-]] năm 2009, ông từ trần tại nơi đinhđịnh cư, hưởng thọ 84 tuổi.
 
==Đời tư==
Ông từng có một đời vợ và 4 người con.
 
Về sau ông lập gia đình với bà Đỗ Thị Lài, thường được biết đến với nghệ danh Minh Hiếu, một nữ danh ca lừng danh một thời tại miền Nam Việt Nam. Chuyện tình duyên của ông bà từng là đề tài của nhiều giai thoại thời bấy giờ.<ref>[[Từ Kế Tường]], ''Bí ẩn bài hát Hoa trinh nữ''. Phóng sự nhiều kỳ. đăng trên trang tin motthegioi.vn. 2015.</ref>
 
==Chú thích==
{{thamTham khảo|2}}
 
== Tham khảo ==
*''Bổ sung theo:
*'''Nguồn:''' Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trần Ngọc Thống & Hồ Đắc Huân (2011),
* {{chú thích sách|title=Encyclopedia of the Vietnam War| first= Spencer C. |last=Tucker |year=2000 |publisher=[[ABC-CLIO]]| isbn=1-57607-040-9 |location=Santa Barbara, California}}
* Trần Ngọc Thống & Hồ Đắc Huân. ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa''. 2011.
 
{{thời gian sống|1926|2009}}
[[Thể loại:Trung tướng Việt Nam Cộng hòa]]
[[Thể loại:Hoàng phái nhà Nguyễn]]
[[Thể loại:Người Huế]]
[[Thể loại:Sinh 1926]]
[[Thể loại:Mất 2009]]
[[Thể loại:Nhà Nguyễn]]