Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thành Cộng Hòa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: sửa chính tả 3, removed: __TOC__ using AWB
Dòng 6:
Ngay sau chiến được [[Thành Gia Định (1836-1859)|thành Gia Định]], cho là khu vực thành quá rộng, khó phòng thủ, chỉ huy trưởng quân Pháp là Phó đô đốc [[Charles Rigault de Genouilly|De Genouilly]] đã cho phá hủy tường thành bằng 32 khối mìn, đồng thời cho tiêu hủy toàn bộ kho tàng trong thành để tránh quân Đại Nam có thể sử dụng được trong trường hợp tái chiếm được thành. Theo ghi nhận một số nhân chứng, di hại của vụ tiêu hủy này mãi đến đầu năm 1862 vẫn còn âm ỉ.<ref name="saigonxuavanay">''Sài Gòn xưa và nay'', Nhà xuất bản Trẻ, 2007, tr.203-207.</ref>
 
Sau khi chiếm được toàn bộ [[Nam Kỳ]], chính quyền thực dân Pháp xây dựng các đề án quy hoạch xây dựng thành phố Sài Gòn. Trong các đồ bản của đề án quy hoạch năm 1867 và 1870, không ghi nhận công trình xây dựng nào trên khu vực thành Gia Định cũ. MãiTuy đếnnhiên, đồngay bảntừ củanăm đề1870, ánmột quyngôi hoạch năm 1873thành mới ghibắt nhậnđầu mộtđược thi công, trìnhdựa xâytrên dựng,bản nhưngthiết khôngkế thểcủa hiệnhai kiến chức năng.trúc Đây người lẽPhápnhữngVaraigne sởA. đầuDupommier. tiênBản chovẽ cănnày cứcho củathấy Trungthành đoànmới chiếm chiếndiện Namtích Kỳchỉ (''Régimentbằng degần marchemột denửa Cochinchine'')thành cũ, đượcchu thànhvi lậpchỉ nămkhoảng 18691.<ref400m; name="11èmehiện RIC">[http://www.2groupeduracaof.com/11%20ric.htmnằm 11èmekhớp régimenttrong d'infanteriebốn colonialecon -đường: 11ème régimentDuẩn, d'infanterieMạc deĐĩnh marine]</ref>Chi, TrạiNguyễn đượcThị xâyMinh dựngKhai bằng nhiềuNguyễn vậtBỉnh liệuKhiêm. sắtVật liệu gạchxây pháthành dỡlấy từ gạch, sắt của thành Gia Định vẫn còn ngổn ngang nơi đây. NgườiTuy bìnhnhiên, hàng loạt các các cuộc tập kích của người dân bấyGia giờĐịnh thườngliên gọitục diễn trạira, Săng-đáthậm (đọcchí trạisát vách thành Gia Định từ dân đất Hộ (Đa Kao) cách đó hơn cây số khiến việc xây thành mới kéo dài đến ba năm, năm 1873 mới xong và được thể hiện trên đồ bản của đề án quy hoạch năm 1873. Ngôi thành mới này được đặt tên là ''soldat'Thành Martin des Pallières''', theo ratên một tướng Pháp, [[Charles Gabriel Félicité Martin des Pallières]] (1823 - 1876).<ref>[http://tuoitre.vn/thanh-gia-dinh-bi-san-bang-con-lai-dau-tich-gi-giua-sai-gon-1053328.htm name="saigonxuavanay"Thành Gia Định bị san bằng, còn lại dấu tích gì giữa Sài Gòn?]</ref>
 
Thành mới này gồm ba khối kiến trúc chính: hai khối nhà dài một trệt một lầu hai bên cổng và một khối nhà một trệt hai lầu xây cao hẳn trên nền đất (kiểu thành và mẫu nhà với hệ thống lam quả trám phía trước chống nóng này được một số kiến trúc Sài Gòn sau đó, như Bệnh viện Quân đội Pháp gần đó - nay là Bệnh viện Nhi đồng 2 - làm theo). Bên ngoài tòa thành mới này vẫn còn hệ thống lũy đất quanh thành Gia Định xưa.
 
Thành Martin des Pallières được sử dụng làm căn cứ của Trung đoàn dã chiến Nam Kỳ (''Régiment de marche de Cochinchine''), được thành lập năm 1869.<ref name="11ème RIC">[http://www.2groupeduracaof.com/11%20ric.htm 11ème régiment d'infanterie coloniale - 11ème régiment d'infanterie de marine]</ref> Người bình dân bấy giờ thường gọi là trại Săng-đá (đọc trại từ ''soldat'' mà ra).<ref name="saigonxuavanay" />
[[Tập tin:Citadel of Saigon 1881.jpg|thumb|phải|300px|Họa đồ thành phố Sài Gòn năm 1881. Vị trí thành Ông-dèm nằm ở góc trên bên trái họa đồ]]
Căn cứ nhanh chóng được mở rộng hoàn thiện. Trên đồ bản của đề án quy hoạch năm 1878 đã thể hiện rõ chức năng đồn binh quân sự tương ứng với khu vực thành Cộng Hòa sau này. Điều này càng thể hiện rõ nét với họa đồ thành phố Sài Gòn năm 1881, với hệ thống lũy đất cũ của thành Gia Định bao quanh cùng với các kiến trúc mới. Các lũy đất này đến khoảng cuối thập niên 1880 đầu thập niên 1890 thì bị san phẳng hoàn toàn.
 
Năm 1890, Trung đoàn dã chiến Nam Kỳ được tổ chức lại, phân thành các trung đoàn bộ binh hải quân (''régiments d'infanterie de marine'') số 9, 10 và 11. Căn cứ này được chuyển thuộc quyền sử dụng của Trung đoàn bộ binh hải quân thứ 11 (''11ème régiment d'infanterie de marine'' - 11ème RIM). Đến năm 1900, trung đoàn được đổi tên thành Trung đoàn bộ binh thuộc địa thứ 11 (''[[:fr:11e régiment d'infanterie coloniale|11ème régiment d'infanterie coloniale]]'' - 11ème RIC).<ref name="11ème RIC" /> Người bình dân bấy giờ thường gọi căn cứ của trung đoàn này là '''trại Ông-dèm''' hoặc '''thành Ông-dèm''', đọc trại từ ''onzième'' trong tiếng Pháp nghĩa là '''thứ 11'''.
 
===Từ thành Ông-dèm đến thành Cộng Hòa===
[[Tập tin:thanhongdem1.jpg|thumb|trái|300px|Ảnh cổng chính thành Ông-dèm năm 1911.]]