Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà lãnh đạo quốc gia tối cao (Trung Quốc)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎top: replaced: tháng 11, 20 → tháng 11 năm 20, tháng 9, 20 → tháng 9 năm 20, tháng 3, 20 → tháng 3 năm 20 using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 18:
Có nghĩa là từ tháng 9 năm 2004 trở đi, Hồ Cẩm Đào mới thực sự là lãnh tụ quốc gia tối cao mặc dù đã giữ chức Tổng bí thư Đảng Cộng sản trước đó 2 năm. Từ Đặng Tiểu Bình trở đi, lãnh tụ tối cao khi đã chọn người kế vị thì bàn giao hai vị trí đứng đầu Đảng Cộng sản và nhà nước trước, sau vài năm mới bàn giao vị trí Chủ tịch Quân ủy trung ương. Điều này nhằm đạt được sự kế tục chính trị, cho người kế vị có thì giờ củng cố ảnh hưởng của mình, trong khi vẫn bảo đảm ảnh hưởng quyền lực của người tiền nhiệm.
 
Riêng trường hợp của Đặng Tiểu Bình là đặc bịệt nhất, tựu chungtrung nhà lãnh đạo tối cao sẽ là người giữ quyền lãnh đạo số 1 của Đảng và quân đội, tuy vậy Đặng thì lại nắm quyền cả khi ông nghỉ hưu cho tới lúc qua đời năm 1997. Về danh nghĩa thì từ năm 1989 đến 1993 Giang Trạch Dân đã nắm trọn 3 chức vụ Tổng Bí thư, chủ tịch quân ủy rồi chủ tịch nước năm 1993 nhưng thực tế vai trò lãnh tụ tối cao vẫn nằm trong tay Đặng. Đặng đã từng phế truất Hoa Quốc Phong, dựng lên và phế truất 2 tổng bí thư là Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương và năm 1992 Đặng tuần du phương Nam đưa ra thông điệp nếu tăng trưởng vẫn không cao sẽ thay lãnh đạo (ý nói thay Giang bằng Kiều Thạch) điều này cho thấy Đặng vẫn là kẻ nắm thực quyền cho tới khi chết năm 1997
 
==Tham khảo==