Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phương Lạp”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Xqbot (thảo luận | đóng góp)
n robot Thay: fr:Fang La
viết lại toàn bộ
Dòng 1:
'''Phương Lạp''' ({{zh-tsp|t=方臘|s=方腊|p=Fāng Là}}); (? - 1121), người huyện [[Hấp (huyện)|Hấp]], tỉnh [[An Huy]], có thuyết cho là ở [[Thanh Khê]], [[Mục Châu]] (nay là [[Thuần An]], [[Hàng Châu]], [[Chiết Giang1121]]) là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nông dân cuối thời [[Bắc Tống]] trong [[lịch sử Trung Quốc]].
 
== Khởi binh ==
== Cuộc đời và khởi nghĩa ==
Phương Lạp là người thôn Yết người huyện [[Hấp (huyện)|Hấp]], tỉnh [[An Huy]], có thuyết cho là ở [[Thanh Khê]], [[Mục Châu]] (nay là [[Thuần An]], [[Hàng Châu]], [[Chiết Giang]]).
 
Phương Lạp xuất thân nghèo khổ, tính tình hảo sảng, rất được lòng người, lại có tài tổ chức, lợi dụng việc truyền bá [[Mani giáo]] để kêu gọi đa số [[nông dân]] nghèo khổ nổi dậy khởi nghĩa. NămCuối [[Tuyênthời Hòa]]Bắc thứ 2 (1120)Tống, Phương Lạp hô hào nôngnhân dân nổibị dậybóc lột thônnặng [[Thất Hiền]]nề, huyệnđời Hấpsống (cókhổ thuyếtcực<ref>Đặng choHuy là tại động Bang NguyênPhúc, làngsách Vạnđã Niên thuộc [[Thuần An]])dẫn, sautr đó326</ref>. đánhHoạn chiếmquan [[HàngĐồng ChâuQuán]], thànhlấy lập chính quyền nông dân tại 6 châu 52 huyện thuộc 4 tỉnhlòng [[GiangTống Tô]],Huy [[Chiết GiangTông]], [[Anthích Huy]]cây cỏ [[Giang Tây]]lạ, đá ảnhquý, hưởngsai rấtChu rộngMiễn thờiđi bấycướp giờ.bóc [[Tụcnhân dân trịGiang thôngNam giám]]cống chépnộp về khởichuyên nghĩachở Phươnghoa Lạp:thạch ''"Phàmcương phá lụccho châuvua, ngũkhiến thập nghị huyện, tường bìnhnhân dân nhịcăm báchgiận<ref>Tiêu vạn"''Lê, (Đánhsách pháđã 6 châu 52 huyệndẫn, giết hại hai trăm vạn dântr thường)457</ref>.
 
Phương Lạp nhân sự oán thán của dân chúng trong vùng bèn bí mật tập hợp những người không nghề nghiệp lại thành lực lượng riêng để chống lại triều đình. Lực lượng tập hợp bên cạnh Phương Lạp ngày càng lớn mạnh. Ông lợi dụng việc truyền bá [[Mani giáo]] để kêu gọi đa số [[nông dân]] nghèo khổ trong vùng nổi dậy khởi nghĩa.
[[Tháng 4]] năm Tuyên Hòa thứ 3 (1121), tỳ tướng [[Vương Uyên]] là [[Hàn Thế Trung]] nhờ dân chỉ đường đã đánh đến động Bang Nguyên, bắt sống Phương Lạp, sau đó Trung Châu phòng ngự sử là [[Tân Hưng Tông]] chiếm được sơn động, Phương Lạp cùng bọn thuộc hạ là [[Phương Phì]] gồm 52 người đều bị bắt, đến [[tháng 8]] thì bị xử tử.
 
Tháng 10 năm 1120, Phương Lạp cùng các thủ hạ nổi dậy chống nhà Bắc Tống. Ông lấy hiệu là Thánh công, lập ra triều đình riêng, đặt niên hiệu là Vĩnh Lạc, đặt ra các bậc quan lại, tướng soái, lấy màu khăn đội đầu để phân biệt. Từ khăn màu đỏ trở lên chia làm 6 bậc.
Mặc dù khởi nghĩa Phương Lạp thất bại, nhưng nhân dân một số địa phương thuộc huyện Hấp và Thuần An vẫn kính trọng vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân. Tên của Phương Lạp được đặt cho một số địa danh, đến nay một số địa phương còn có ''động Phương Lạp'', ''trại Phương Lạp''.
 
== Phát triển ==
Từ năm Tuyên Hòa thứ nhất (1119), sau khi [[Tống Giang]] nhận chiếu chiêu an của triều đình [[nhà Tống]] đã có tham gia trấn áp cuộc khởi nghĩa Phương Lạp.
Trong quân Phương Lạp không dùng cung tên, giáo mác, không mặc áo giáp, chỉ dùng quỷ thần huyền bí để khiến mọi người tin theo. Miền nam nhà Bắc Tống trải qua hòa bình nhiều năm, thấy chiến sự đều sợ hãi nghe lệnh đi theo Phương Lạp đến hàng vạn người<ref>Vương Xuân Du, sách đã dẫn, tr 253</ref>.
 
Quân Phương Lạp đông đảo khá mạnh, tiến ra đánh chiếm Tức Khanh, giết chết tướng Quan Sát Đạo. Tháng 11 năm 1120, Phương Lạp vây hãm Thanh Khê, tới tháng 12 thì vây hãm Mục châu và Hàn châu. Không lâu sau Phương Lạp lại tiến về phía nam vây hãm Hoành châu, giết chết quận thú là Bành Nhữ Phương.
 
Thắng lợi ở Hoành châu, Phương Lạp tiến lên phía bắc đánh chiếm các huyện Tân Thành, Đồng Lô, Phú Dương, tiếp cận Hàng châu. Quận thú nhà Tống sợ hãi bỏ thành chạy<ref>Vương Xuân Du, sách đã dẫn, tr 254</ref>. Phương Lạp bèn đánh chiếm Hàng châu, giết chết Chế trí sứ Trần Kiến và Kiêm phỏng sứ Triệu Ước, phóng hỏa thiêu cháy thành trong 6 ngày.
 
Trong lúc Phương Lạp liên tiếp giành thắng lợi thì trong triều, Vương Phụ giấu tin tức ngoài mặt trận không báo cáo lên khiến Phương Lạp ngày càng mạnh. Ở vùng Lan Khê, Linh Sơn, Phương Lạp được sự hưởng ứng của Ngô Bang ở huyện Phán, Lã Sư Nhương ở Tiên Cư, Trần Thập Tú ở núi Phương Nham, Thạch Sinh ở Tô châu, Lục Hành Nhi ở Quy An. Trong vùng ngày càng nhiều người quy tụ về Phương Lạp.
 
Phương Lạp đã thành lập chính quyền nông dân tại 6 châu 52 huyện thuộc 4 tỉnh [[Giang Tô]], [[Chiết Giang]], [[An Huy]] và [[Giang Tây]], có ảnh hưởng rất rộng thời bấy giờ. [[Tục tư trị thông giám]] chép về khởi nghĩa Phương Lạp: ''"Phàm phá lục châu, ngũ thập nghị huyện, tường bình dân nhị bách vạn"'' (Đánh phá 6 châu 52 huyện, giết hại hai trăm vạn dân thường).
 
== Thất bại ==
Lực lượng Phương Lạp phát triển rầm rộ cuối cùng khiến Tống Huy Tông hay biết và rất lo lắng. Phó vận sứ Trần Đình Bá đề nghị điều binh lính kinh kỳ và quân cung nỏ thiện xạ đi trấn áp.
 
Tống Huy Tông vội hạ lệnh bãi bỏ việc tìm hoa thạch cương để bớt sự bất bình của dân chúng<ref>Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 543</ref>, rồi cử hoạn quan Đồng Quán làm Tuyên phù sứ Giang, Triết, Hoài Nam, lãnh trách nhiệm tổng chỉ huy cùng Đàm Trinh cầm 15 vạn cấm quân cùng quân từ các vùng Tần, Tấn, Phiên, Hán đi đánh Phương Lạp<ref>Kỳ Ngạn Thần, sách đã dẫn, tr 377</ref><ref>Vương Xuân Du, sách đã dẫn, tr 253, 255</ref>.
 
Tháng giêng năm 1121, Phương Lạp lệnh cho Phương Thất Phật mang 6 vạn quân đến đánh Tú châu. Vương Tử Vũ giữ thành cố thủ, Phương Thất Phật không đánh được. Không lâu sau viện binh của Đồng Quán kéo đến, trong ngoài cùng giáp công đánh Phương Thất Phật thua to, bị giết 9000 người. Phương Lạp rút về cố thủ ở Hàng châu.
 
Tháng 2 năm 1121, quân Đồng Quán kéo đến bờ sông Thanh Hà, hai cánh quân áp sát lại giáp công. Phương Lạp thua to, thiêu hủy cả quan phù, kho tàng và bỏ chạy trong đêm đó<ref>Vương Xuân Du, sách đã dẫn, tr 254</ref>.
 
Tháng 4 năm 1121, Phương Lạp thua trận cuối cùng, 7 vạn quân bị giết. Quân Tống đánh đến động Bang Nguyên, bắt sống Phương Lạp cùng cùng vợ, 2 con trai và các thuộc hạ do Phương Phì đứng đầu gồm 52 người.
 
Đến [[tháng 8]] năm 1121, ông cùng các tướng lĩnh đều bị xử tử. Phương Lạp trước sau xưng hiệu được 7 tháng, không rõ bao nhiêu tuổi.
 
Dù Phương Lạp chết nhưng các thủ hạ vẫn tiếp tục chống lại triều đình khiến các tướng nhà Tống phải đánh dẹp mãi tới tháng 3 năm 1122 mới hoàn thành. Sau khi lực lượng Phương Lạp bị dẹp, Tống Huy Tông lại phát lệnh bắt dân tìm nộp hoa thạch cương như trước<ref>Tiêu Lê, sách đã dẫn, tr 544</ref>.
 
== Ảnh hưởng ==
Mặc dù khởi nghĩa Phương Lạp thất bại, nhưng nhân dân một số địa phương thuộc huyện Hấp và Thuần An vẫn kính trọng vị lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân. Tên của Phương Lạp được đặt cho một số địa danh, đến nay một số địa phương còn có ''động Phương Lạp'', ''trại Phương Lạp''.
 
== Trong văn học ==
Phương Lạp được nhắc đến trong tiểu thuyết [[Hậu thủy hử]] của [[Thi Nại Am]] và La Quán Trung. Trong những hồi cuối cùng của tác phẩm, sau khi nhận chiêu an của triều đình, Tống Giang đã đi tiên phong đánh dẹp Phương Lạp. Lực lượng của Phương Lạp cũng chính là lực lượng đầu tiên gây tổn thất và là tổn thất nặng nề cho các anh hùng Lương Sơn Bạc. Nhiều anh hùng tên tuổi của Lương Sơn đã tử trận vì quân Phương Lạp như Tần Minh, Sử Tiến, Trương Thanh, Đổng Bình, Vương Nụy Hổ, Hỗ Tam Nương, Vương Tiểu Nhị, Vương Tiểu Ngũ… Trong hơn 100 người ra trận<ref>Trong 108 thủ lĩnh Lương Sơn Bạc có 5 người ở lại kinh thành Khai Phong không đi đánh Phương Lạp</ref> chỉ còn 27 người trở về.
Phương Lạp được nhắc đến trong tiểu thuyết [[Thủy hử]] của [[Thi Nại Am]].
 
Cuối cùng, Phương Lạp bị Lỗ Trí Thâm bắt được trên đường chạy trốn và bị mang về kinh xử tử.
 
[[Tháng 1]] năm [[2005]], nhà sách Tam Liên [[Thượng Hải]] đã xuất bản cuốn tiểu thuyết [[Phương Lạp và Tống Giang]] do [[Vương Nhất Lỗ]] biên soạn.
 
== Xem thêm==
* [[Đồng Quán]]
* [[Tống Giang]]
 
== Tham khảo ==
* [[Tống sử]], quyển 468
* Vương Xuân Du (1996), ''Kể chuyện các hoạn quan Trung Quốc'', NXB Văn hóa thông tin
* Kỳ Ngạn Thần (2007), ''Người Trung Quốc và những hiểu lầm về lịch sử'', NXB Công an nhân dân
* Đặng Huy Phúc (2001), ''Các hoàng đế Trung Hoa'', NXB Hà Nội
* Tiêu Lê (2000), ''Những ông vua nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, tập 2,'' NXB Đà Nẵng
 
== Chú thích==
{{reflist}}
 
[[Thể loại:Mất 1121]]
[[Thể loại:Nhân vật Thủy hử]]
[[Thể loại:Người nhà Tống]]
[[Thể loại:Quân nổi dậy Trung Quốc]]
 
[[en:Fang La]]