Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiếng Ai Cập”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n stub sorting, replaced: hế kỷ 17 → hế kỷ XVII (3), hế kỷ 19 → hế kỷ XIX using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 19:
 
Dạng cổ điển của nó mang tên Ai Cập Trung kỳ, ngôn ngữ của [[Trung Vương quốc Ai Cập]] và là dạng văn viết chính cho tới [[Đế quốc La Mã|thời La Mã]]. Ngôn ngữ này phát triển thành [[Demotikos (tiếng Ai Cập)|Demotikos]] vào thời [[Cổ đại Hy-La]], rồi thành [[tiếng Copt]] khi quá trình [[người Copt|Kitô giáo hóa]] xảy ra. Tiếng Copt tuyệt chủng như một ngôn ngữ nói hàng ngày vào thế kỷ XVII, nhưng vẫn hiện diện là ngôn ngữ hành lễ của [[Giáo hội Chính Thống giáo Copt thành Alexandria]].<ref name=extinct>Tiếng Copt có lẽ vẫn được nói tại vài địa điểm biệt lập ở [[Thượng Ai Cập]] đến tận thế kỷ XIX, theo James Edward Quibell, "When did Coptic become extinct?" trong ''Zeitschrift für ägyptische Sprache und Altertumskunde'', 39 (1901), p. 87.</ref><ref name="Daily Star Egypt">[https://web.archive.org/web/20110721071828/http://www.dailystaregypt.com/article.aspx?ArticleID=106 "Coptic language's last survivors". ''Daily Star Egypt'', December 10, 2005 (archived)]</ref>
 
==Phân loại==
Tiếng Ai Cập thuộc [[ngữ hệ Phi-Á]].<ref name="l1">{{Harvcoltxt|Loprieno|1995|p=1}}</ref> Những đặc điểm của tiếng Ai Cập mà cũng tiêu biên cho hệ Phi-Á là tính [[ngôn ngữ hòa kết|hòa kết]], [[hình thái học phi nối kết]], một loạt [[phụ âm mạnh]] (emphatic), hệ thống ba nguyên âm {{IPA|/a i u/}}, hậu tố danh từ giống cái *''-at'', tiền tố danh từ ''m-'', hậu tố tính từ *''-ī'' và hệ thống phụ tố động từ đặc trưng.<ref name="l1" /> Trong các nhánh ngôn ngữ Phi-Á, tiếng Ai Cập cho thấy sự gần gũi nhất với [[nhóm ngôn ngữ Semit|nhóm Semit]], và, ở mức thấp hơn, [[nhóm ngôn ngữ Cush|nhóm Cush]].<ref>{{Harvcoltxt|Loprieno|1995|p=5}}</ref>
 
Trong tiếng Ai Cập, các phụ âm hữu thanh {{IPA|*/d z ð/}} trong [[ngôn ngữ Phi-Á nguyên thủy]] phát triển thành âm hầu {{angle bracket|ꜥ}} {{IPA|/ʕ/}}: ''ꜥr.t'' 'cổng' (so sánh với {{Lang-he-n|דלת}}, ''délet'', 'cửa').<ref name="l31">{{Harvcoltxt|Loprieno|1995|p=31}}</ref> Âm {{IPA|*/l/}} hợp nhất với {{angle bracket|n}}, {{angle bracket|r}}, {{angle bracket|ꜣ}}, và {{angle bracket|j}} trong phương ngữ mà ngôn ngữ viết dựa trên, nhưng được lưu giữ trong những phương ngữ khác.<ref name="l31" /> {{IPA|*/k g ḳ/}} vòm hóa thành {{angle bracket|ṯ j ḏ}} trong một số điều hiện và giữ nguyên là {{angle bracket|k g q}} trong số khác.<ref name="l31" />
 
Tiếng Ai Cập có nhiều gốc từ đôi âm vị và có thể cả đơn âm vị, trái với các gốc từ tam âm vị thường thấy trong các ngôn ngữ Semit.<ref name="l52">{{Harvcoltxt|Loprieno|1995|p=52}}</ref> Về mặt này, tiếng Ai Cập có lẽ nguyên thủy hơn, và các ngôn ngữ Semit nhiều khả năng đã trải qua quá trình chuyển các gốc từ đôi âm vị thành tam âm vị.<ref name="l52" />
 
Dù tiếng Ai Cập là ngôn ngữ Phi-Á cổ nhất được ghi nhận, đặc điểm hình thái học của nó lại rất khác với những ngôn ngữ Phi-Á khác.<ref name="l51">{{Harvcoltxt|Loprieno|1995|p=51}}</ref> Có nhiều nguyên nhân khả thi: thứ nhất là tiếng Ai Cập đã trải qua một quá trình thay đổi nhiều mặt trước khi nó được ghi nhận; thứ hai, việc nghiên cứu ngôn ngữ Phi-Á có lẽ đã quá tập trung vào các ngôn ngữ Semit và do đó bỏ qua các đặc điểm mà tiếng Ai Cập có chung với các nhánh khác; thứ ba, như G. W. Tsereteli đề xuất, ngữ hệ Phi-Á là một nhóm dị phát sinh chứ không phải một nhóm hợp lệ mang chung nguồn gốc.<ref name="l51" />
==Tham khảo==
{{tham khảo|2}}