Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Thông”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
'''Nguyễn Thông''' ([[chữ Hán]]: 阮通;
==Tiểu sử==
Thân phụ ông là Nguyễn Hanh, người Tân Thạnh (tỉnh Gia Định), kết hôn cùng bà Trịnh Thị A Mầu nguyên quán ở [[Thừa Thiên]], sinh hạ được hai trai là Nguyễn Thông và Nguyễn Hài.
Thuở nhỏ, hai anh em ông được cha dạy dỗ. Năm Nguyễn Thông
Năm 1844, Nguyễn Thông ra học ở [[Huế]]. Năm 1849, ông thi đậu [[cử nhân]] nhưng thi hội bị đánh hỏng vì tập bài thi bị lấm mực. Biết văn tài của Nguyễn Thông, nhiều người khuyên nên đợi để thi khoa sau. Nhưng vì nhà nghèo không thể tiếp tục học, Nguyễn Thông nhận chức huấn đạo tại Phú Phong, tỉnh [[An Giang]].
Dòng 36:
Năm 1881, Nguyễn Thông được bổ làm Phó sứ điển nông kiêm đốc học tỉnh Bình Thuận. Năm sau thăng Hồng lô tự khanh. Năm 1883, kinh thành thất thủ, Tự Đức băng hà, ông ra Huế thọ tang vua.
Tháng 4 năm 1884, ''Ngọa Du Sào văn tập'' của ông ra đời. Tháng 6 cùng năm đó, ông viết di chúc...
Mộ phần của ông đặt ở đồi Ngọc Lâm, sát chân núi Ngọc Sơn, đối diện với [[Pôshanư|Tháp Chăm Pôshanư]], [[Lầu ông Hoàng]] và Bửu Sơn Tự thuộc phường Phú Hài, trên con đường từ [[Phan Thiết]] đi [[Mũi Né]].
|