Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hỗ trợ không lực tầm gần”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 26:
 
Thông thường sự hỗ trợ không lực chặt chẽ chỉ được thực hiện bởi máy bay ném bom chiến đấu hoặc máy bay tấn công mặt đất chuyên dụng, như [[A-10 Thunderbolt II]] (''Warthog'') hay [[Sukhoi Su-25|Su-25 (''Frogfoot'')]], nhưng sau đó máy bay ném bom tầm cao cỡ lớn cũng đã thành công trong vai trò hỗ trợ bằng cách sử dụng loại [[Đạn dược có điều khiển chính xác|đạn dẫn đường chính xác]]. Trong [[Chiến dịch Tự do bền vững]], việc thiếu máy bay chiến đấu buộc các nhà hoạch định quân sự phải phụ thuộc nhiều vào máy bay ném bom của Mỹ, đặc biệt là [[B-1B Lancer]], để hoàn thành vai trò hỗ trợ không lực tầm gần. Máy bay ném bom loại này chủ yếu dựa vào vũ khí dẫn đường GPS và dẫn đường bằng laser [[JDAM]], và chúng đã phát triển thành một phương pháp hoạt động chiến thuật tàn khốc, làm thay đổi tư duy giáo lý của Hoa Kỳ về CAS nói chung. Với thời gian, tầm bắn và năng lực vũ khí dài hơn đáng kể, máy bay ném bom có thể được triển khai đến các căn cứ gần khu vực chiến trường, với các nhiệm vụ kéo dài 12 giờ kể từ năm 2001. Sau sự sụp đổ ban đầu của chế độ [[Taliban]] ở Afghanistan, các sân bay ở Afghanistan đã trở thành cơ sở tiếp tục hoạt động chống lại Taliban và [[Al-Qaeda]]. Điều này dẫn đến một số lượng lớn các hoạt động hỗ trợ không lực tầm gần được thực hiện bởi máy bay từ Bỉ ([[F-16 Fighting Falcon]]), Đan Mạch (F-16), Pháp ([[Dassault Mirage 2000N/2000D|Mirage 2000D]]), Hà Lan (F-16), Na Uy (F-16), Anh ([[BAE Harrier II|Harrier GR7s, GR9s]], [[Panavia Tornado#Royal Air Force|Tornado GR4s]]) và Mỹ (A-10, F-16, [[AV-8B Harrier II]], [[F-15E Strike Eagle]], [[F/A-18 Hornet]], [[F/A-18E/F Super Hornet]], [[UH-1Y Venom]]).
 
==Cải tiến công nghệ==
Việc ứng dụng công nghệ thông tin để chỉ đạo và phối hợp hỗ trợ trên không chính xác đã làm tăng tầm quan trọng của hoạt động [[tình báo]], giám sát và trinh sát trong hỗ trợ không lực tầm gần. [[Laser]], [[GPS]] và khả năng truyền dữ liệu chiến trường thường xuyên đã được sử dụng để phối hợp với nhiều máy bay có thể cung cấp hỗ trợ không lực tầm gần. Học thuyết gần đây<ref name=DoD_JointTactics>{{cite journal|title=Joint Tactics, Techniques, and Procedures for Close Air Support (CAS)|publisher=U.S. Department of Defense|date=2003-09-03|url=http://www.dtic.mil/doctrine/jel/new_pubs/jp3_09_3.pdf|format=PDF|url-status=dead|archiveurl=https://web.archive.org/web/20070927021821/http://www.dtic.mil/doctrine/jel/new_pubs/jp3_09_3.pdf|archivedate=2007-09-27}}</ref> phản ánh sự gia tăng sử dụng công nghệ điện tử và quang học để chỉ đạo các vụ tấn công bằng hỏa lực cho hỗ trợ không lực tầm gần. Máy bay trinh sát liên lạc với các lực lượng mặt đất cũng có thể cung cấp thêm xác định vị trí trực quan trên mặt đất, hộ tống trên mặt đất, tăng cường năng lực chỉ huy và kiểm soát (C2), các phương tiện này có thể đặc biệt quan trọng đối với xung đột cường độ thấp.<ref name=AirSpace_Haun_2006>[[#Haun|Haun]] (2006), ''Air & Space Power Journal.</ref>
 
==Tham khảo==