Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đạo Phật Khất sĩ Việt Nam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Thời kỳ trụ xứ sau năm 1975: replaced: tháng 4, 19 → tháng 4 năm 19 using AWB
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 32:
 
==Thời kỳ Hiệp Nhất về Pháp Lý thập niên 1964- 1974==
Khoảng năm 1965, hoà thượng Giác Nhu và hoà thượng Giác Thường thuộc Giáo đoàn 1 đứng ra vận động thành lập [[Giáo hội Tăng già Khất sĩ Việt Nam]]. Bên Ni chúng cũng có 5 đoàn do quý Ni Cô Huỳnh Liên, Ngân Liên, Trí Liên, Diệu Liên, Tạng Liên làm trưởng đoàn. Các đoàn đã du hóa khắp Nam phần và Miền duyên hải Trung phần.
 
Tháng 05 năm 1966, đại hội đầu tiên được triệu tập để thành lập Ban Trị sự Giáo hội Tăng Già Khất sĩ Việt Nam, nhiệm kỳ I (1966 - 1969). Tổ đình Minh Đăng Quang ở ngã ba Cát Lái, xa lộ Biên Hòa. Hội đồng lãnh đạo trung ương gồm Viện Chỉ Đạo do Thượng Tọa Giác Nhiên làm Tổng Trị Sự.
 
==Thời kỳ trụ xứ sau năm 1975==
Sau [[Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975]], các chư tăng ni Khất sĩ dừng chân du hoá an tịnh thường trú tại những ngôi tịnh xá được thành lập trước đây tiếp tục con đường tu hành theo lối giáo huấn của Tổ sư. Giáo phái khất sĩ mặc y và du hóa như Nam Tông. Tăng Ni trường chay, kinh điển viết theo lối văn vần. Sau 10 năm hành đạo, tổ sư Minh Đăng Quang lưu lại giáo lý gồm có: Bồ Tát Giáo, và bộ sách CHÂN LÝ. Ông dạy Tăng chúng: ''Sống là sống chung, biết là học chung, linh là tu chung''. Tuy nhiên, gần đây, vì nhiều lý do (đặc biệt do tình trạng khất sĩ giả), các giáo đoàn không còn đi khất thực nữa.
 
Ngày nay, vì Thượng Tọa Giác Chánh tuổi cao nên Thượng Tọa Giác Toàn điều hành giáo hội khất sĩ. Trụ sở tại Trung Tâm Tịnh Xá Gia Định. Có khoảng 300 ngôi tịnh xá khắp miền Nam, ở hải ngoại Hòa Thượng Giác Nhiên là Pháp Chủ Giáo Hội Tăng Già Khất Sĩ Thế Giới, có trên 20 tịnh xá thuộc giáo phái này ở Hoa Kỳ.
 
==Chú thích==