Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiếc bè của chiến thuyền Méduse”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Mô tả |
|||
Dòng 50:
Các phần của bức tranh được cấu tạo dựa trên hai cấu trúc hình kim tự tháp. Chu vi cột buồm lớn ở bên trái tạo nên cấu trúc hình kim tự tháp thứ nhất. Nhóm người chết nằm ngang và người đang hấp hối ở tiền cảnh tạo nên nền móng để những người sống sót có thể đứng lên, đưa cảm xúc lên tới cao trào, nơi mà nhân vật trung tâm vẫy tay ra hiệu cho một chiếc tàu cứu hộ trong tuyệt vọng.
[[File:Radeau meduse structure.jpg|thumb|left|Sơ đồ thể hiện phác thảo của hai cấu trúc hình kim tự tháp tạo thành nền tảng của tác phẩm. Vị trí của chiếc '' Argus ''
Sự chú ý của người thưởng tranh trước tiên sẽ được đưa về trung tâm của tấm bạt, tiếp đến là theo luồng hướng của thân xác người sống sót, nhìn từ phía sau và rồi vuốt về phía bên phải.<ref name="Boime142" /> Theo nhà sử học nghệ thuật Justin Wintle thì "có một sự chuyển động chéo nằm ngang [dẫn đưa] chúng ta từ những xác chết ở phía dưới bên trái đến những người sống sót ở trên đỉnh."<ref name="Wintle246">Wintle, 246</ref> Hai đường chéo khác được sử dụng để làm tăng độ căng thẳng cho bức tranh. Một đường chạy theo cột buồm và những trang thiết bị của nó, hướng mắt người xem đến một cơn sóng đang tiếp cận, đe doạ nhấn chìm chiếc bè, trong khi đường thứ hai, bao gồm những nhân vật đang vẫy tay, đưa ánh mắt người xem hướng đến hình bóng của chiếc ''Argus'' ở chân trời, chiếc tàu cuối cùng sẽ giải cứu những người sống sót.<ref name="Louvre" />
Bảng màu (Pallet) của Géricault bao gồm màu da xanh xao, và màu sắc âm u của quần áo của những người sống sót, biển và mây.<ref name="Wilkin">[[Karen Wilkin|Wilkin, Karen]]. "Romanticism at the Met". ''[[The New Criterion]]'', Quyển 22, Issue 4, Tháng 12 2003. 37</ref> Nhìn chung, bức tranh trông tối tăm và phần lớn đều nhờ vào việc sử dụng tông màu tối, bột màu chủ yếu là màu nâu, một pallet mà Géricault tin là có hiệu quả trong việc diễn tả bi kịch và đau đớn.<ref name="Miles, 180">Miles, 180</ref> Ánh sáng trong bức tranh được mô tả là mang phong cách [[Caravaggio]] ("Caravaggesque"),<ref name="Nov85">Novotny, 85</ref> cũng như các họa sĩ người Ý thường gắn liền với ''tenebroso'' ("u ám") – một cách ứng dụng sự tương phản giữa tối và sáng có phần hơi quá. Có lẽ Géricault không thể hiện mối quan tâm đến khung cảnh biển, sử dụng màu xanh lục sẫm thay vì màu xanh lam nhằm tạo sự tương phản với tông màu của chiếc bè cũng như các nhân vật trong tranh.<ref name="M226">Muther, 225–26</ref>
== Thực hiện ==
=== Nghiên cứu và chuẩn bị ===
[[File:Medusa study 1.jpg|thumb|''Bản nghiên cứu "Chiếc bè của chiến thuyền Méduse"'' của Géricault, bút và mực màu nâu, 17.6 cm × 24.5 cm, [[Palais des Beaux-Arts de Lille|Bảo tàng Mỹ thuật]], [[Lille]], Pháp]]
Géricault đã bị quyến rũ bởi những tường thuật về vụ đắm tàu năm 1816 được công bố rộng rãi và nhận ra rằng mô tả về sự kiện này có thể là cơ hội để ông khẳng định danh tiếng của mình với tư cách là một họa sĩ.<ref name="M169">Miles, 169</ref> Sau khi quyết định theo đuổi, ông đã tiến hành nghiên cứu sâu rộng trước khi bắt đầu cầm bút vẽ. Đầu năm 1818, ông gặp hai người sống sót: Henri Savigny, bác sĩ phẫu thuật và [[Alexandre Corréard]], một kỹ sư của [[ParisTech#Cơ cấu|École nationale supérieure d'arts et métiers]] (Trường kỹ nghệ quốc gia Pháp). Những mô tả xúc động về những trải nghiệm của họ đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho phong thái của bức tranh cuối cùng.<ref name="Christine"/> Theo nhà sử học nghệ thuật Georges-Antoine Borias, "Géricault đã lập xưởng vẽ của mình đối diện bệnh viện Beaujon. Và chính tại nơi đây, một sự suy sụp ảm đạm đã được khởi đầu. Đằng sau những cánh cửa bị khóa, ông
Những chuyến đi trước đây đã giúp Géricault hiểu thế nào là nạn nhân của bệnh điên và [[bệnh dịch hạch]].<ref name="Eitner" /> Trong khi nghiên cứu ''Méduse'', những nỗ lực của ông để tạo nên một bức tranh đúng với lịch sử và thực tế đã dẫn tới sự ám ảnh về những [[co cứng tử thi|tử thi bị co cứng]]. Để đạt được kết quả xác thực nhất về xác thịt của người chết,<ref name="Louvre" /> ông đã phác hoạ những xác chết trong nhà xác của bệnh viện Beaujon, nghiên cứu khuôn mặt của những bệnh nhân sắp chết ở bệnh viện,<ref name=christiansen/> đem chân tay bị cắt đứt đến xưởng vẽ để nghiên cứu sự [[Phân hủy|phân hủy]],<ref name="M169"/><ref>''[[:File:Anatomical Pieces.JPG|Anatomical Pieces]]'', an unusual still-life which Géricault produced in 1818–1819, shows some of these dismembered limbs.</ref> hay mượn một thủ cấp đã bị cắt đứt từ một nhà thương điên và đặt nó trên mái nhà của ông trong vòng 14 ngày.<ref name=christiansen/>
Dòng 77:
Géricault đã quyết định đi tu sau khi buộc phải phá vỡ một cuộc tình đầy đau đớn với dì của mình. Từ tháng 11 năm 1818 đến tháng 7 năm 1819, ông đã sống một cuộc sống kỷ luật như trong tu viện tại xưởng vẽ của mình ở [[Faubourg du Roule]]. Bữa ăn được người giúp việc của ông chuẩn bị và chỉ thỉnh thoảng, ông mới chi tiêu cho một buổi tối ở ngoài.<ref name=christiansen/> Ông và người trợ lý 18 tuổi Louis-Alexis Jamar ngủ trong một căn phòng nhỏ cạnh xưởng vẽ. Thi thoảng, hai người có cãi cọ lẫn nhau và trong một lần, Jamar đã bỏ đi. Sau hai ngày, Géricault đã có thể thuyết phục anh ta trở lại. Trong xưởng vẽ ngăn nắp trật tự của ông, vị họa sĩ đã làm việc một cách có hệ thống trong sự yên tĩnh tuyệt đối và nhận ra rằng ngay cả những tiếng ồn của [[chuột]] cũng đã đủ để phá vỡ sự tập trung của ông.<ref name=christiansen/>
[[File:Théodore Géricault - Le Radeau de la Méduse esquisse (salon de 1819).jpg|thumb|left|''Nghiên cứu'' (kh. 1818–1819), 38 cm × 46 cm, [[Louvre]]. Bức vẽ dầu chuẩn bị này mô tả gần chính xác vị trí của các nhân vật trong tác phẩm cuối cùng.]]
Ông đã sử dụng bạn bè của mình làm người mẫu, đáng chú ý nhất là họa sĩ nổi tiếng [[Eugène Delacroix]] (1798–1863), người mẫu cho nhân vật ở tiền cảnh với mặt quay xuống và một cánh tay mở ra. Hai trong số những người sống sót đã được thể hiện bằng bóng tối dưới chân cột buồm;<ref name="Hagen & Hagen, 376">Hagen, Rose-Marie & Hagen, Rainer. What Great Paintings Say. Vol. 1. Taschen, 2007 (25th ed.). 374–7. ISBN 3-8228-4790-9.</ref> Ba nhân vật được vẽ từ nguyên mẫu người thật, đó là ba người đã may mắn sống sót Corréard, Savigny và Lavillette. Jamar đã
Theo Hubert Wellington, Delacroix – người sẽ trở thành đầu tàu của [[chủ nghĩa Lãng mạn]] Pháp sau cái chết của Géricault – đã viết rằng; "Géricault đã cho phép tôi thưởng thức ''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' của anh ấy khi anh ấy vẫn đang thực hiện nó. Nó để lại ấn tượng rất mạnh với tôi và khi tôi rời xưởng vẽ [của Géricault], tôi bắt đầu chạy như một thằng điên và không dừng lại cho đến khi tôi về đến phòng của mình."<ref name="delacroix1863">{{cite book|editor-last=Piron|editor-first=E. A.|date=1865|url=https://archive.org/details/eugenedelacroixs00dela|title=Eugène Delacroix, sa vie et ses oeuvres|location=Paris|publisher=J. Claye|oclc=680871496|via=the Internet Archive|page=[https://archive.org/details/eugenedelacroixs00dela/page/61/mode/1up 61]|quote='...Il me permit d'aller voir sa Méduse pendant qu'il l'exécutait dans un atelier bizarre qu'il avait près des Ternes. L'impression que j'en reçus fut si vive, qu'en sortant je revins toujours courant et comme un fou jusqu'à la rue de la Planche ou j'habitais alors.'}}</ref><ref name=Delacroix1923>{{cite book|last=Delacroix|first=Eugène|editor-last=|title=Oeuvres littéraires. II. Essais sur les artistes célèbres|url=https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k56597765|location=Paris|publisher=G. Crès et cie|date=1923|page=[https://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k56597765/f256.image 233]|via=Gallica}}</ref><ref name="Wellingtonxi">{{harvnb|Wellington|1980|p=xi}}.</ref><ref>Miles, 175–76</ref>
Géricault đã sử dụng những
[[File:Couleurs radeau meduse.png|thumb|Biểu đồ này minh họa 16 màu chính được sử dụng cho bức tranh.<ref name=christiansen/>]]
Dòng 91:
== Ảnh hưởng ==
Chiếc bè của chiến thuyền Méduse chịu nhiều ảnh hưởng từ các [[danh họa cổ điển]], từ bức ''[[Sự phán xét cuối cùng (Michelangelo)|Sự phán xét cuối cùng]]'' trên trần [[nhà nguyện Sistina]] của [[Michelangelo]], ''[[Chúa hiển dung (Raffaello)|Chúa hiển dung]]'' của [[Raffaello]]<ref name="Clark">Clark, Kenneth. ''The Nude: A Study in Ideal Form''. NXB Đại học Princeton, 1990. 269. {{ISBN|0-691-01788-3}}</ref> cho đến sự tham khảo từ các đại danh họa cùng thời như [[Jacques-Louis David]] (
"[http://www.nga.gov/feature/artnation/vernet/index.shtm Claude Joseph Vernet: The Shipwreck] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20160303215057/http://www.nga.gov/feature/artnation/vernet/index.shtm |date=3 March 2016 }} ". [[National Gallery of Art]]. Bản lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2008.
</ref>
[[File:LastjudgementCharon.jpg|thumb|left|[[Michelangelo]]. Chi tiết bức ''[[Sự phán xét cuối cùng (Michelangelo)|Sự phán xét cuối cùng]]'' trong [[nhà nguyện Sistina]]. Géricault từng nói, "Michelangelo
Mặc dù những con người được miêu tả trên chiếc bè đã trải qua 13 ngày lệnh đênh trên biển, phải hứng chịu đói khát, bệnh tật và phải ăn thịt người, Géricault bày tỏ sự tôn kính đối với trường phái anh hùng trong hội họa và miêu tả những nhân vật trong tác phẩm của mình với cơ bắp lực lưỡng. Theo nhà sử học nghệ thuật Richard Muther, tác phẩm vẫn chứa đựng nhiều yếu tố của [[Cổ điển|chủ nghĩa cổ điển]]. Việc phần lớn các nhân vật trong tranh đều gần như khỏa thân, ông cho rằng là nảy sinh từ mong muốn tránh những trang phục "thiếu sinh động" của tác giả. Muther nhận xét rằng "vẫn còn một cái gì đó không thực tế trong mỗi nhân vật này, họ dường như không bị suy sụp bởi cảnh thiếu thốn, bệnh tật và cuộc đấu tranh với cái chết".<ref name="M226" />
Ảnh hưởng của Jacques-Louis David có thể được nhìn thấy ở phạm vi của bức tranh, sự căng thẳng được khắc họa của các nhân vật và những cử chỉ được tôn lên trong một giây phút mang tính chất quan trọng
[[File:Pierre-Paul Prud'hon - Justice and Divine Vengeance Pursuing Crime.JPG|thumb|alt=bức tranh màu u tối vẽ hai thiên thần có cánh đuổi theo người đàn ông chạy trốn khỏi một cơ thể trần trụi|[[Pierre-Paul Prud'hon]]. ''Công lý và Sự báo thù và thù hận theo đuổi tội ác'', 1808, 244 cm × 294 cm, [[J. Paul Getty Museum]], [[Getty Center]], Los Angeles. Sự đen tối và tử thi lõa thể nằm ngổn ngang đã gây ảnh hưởng đến bức tranh của Géricault.<ref name=gayford/>]]
Géricault thời trai trẻ đã vẽ các bản sao tác phẩm của [[Pierre-Paul Prud'hon]] (1758 — 1823), người có "những bức tranh bi thương đầy dông bão", bao gồm kiệt tác "Công lý và Sự báo thù và thù hận theo đuổi tội ác", nơi bóng đêm ngột ngạt, với tâm điểm là một tử thi lõa lồ, nằm ngổn ngang rõ ràng đã ảnh hưởng đến tác phẩm của Géricault.<ref name=gayford>Gayford, Martin. "[https://web.archive.org/web/20160505155053/https://www.highbeam.com/doc/1P3-23003606.html Distinctive power]". ''[[The Spectator]]'', 1 tháng 11 năm 1997.</ref>
Hình ảnh người đàn ông lớn tuổi ở tiền cảnh có thể là một sự ám chỉ đến nhân vật [[Ugolino della Gherardesca|Ugolino]] từ ''[[Hỏa ngục]]'' của [[Dante]], một chủ đề mà Géricault đã dự tính vẽ và dường như mượn từ một bức tranh về Ugolini của [[Henry Fuseli]] (1741 — 1825) mà Géricault có thể biết thông qua các bản in ấn. Ở Dante, Ugolino phạm tội [[ăn thịt người]], đó là một trong những khía cạnh giật gân nhất của những ngày trên bè. Géricault dường như ám chỉ điều này thông qua việc vay mượn từ Fuseli.<ref name="R73">Noon, 84. Riding (tháng 6 năm 2003), 73. [[:File:Ugolino and his Sons Starving to Death in the Tower 1806 1a.jpg|Print after the Fuseli Ugolino]]</ref> Một phác họa nghiên cứu bằng màu nước của ''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' hiện đang ở [[bảo tàng Louvre]] với cảnh một nhân vật đang ngấu nghiến nhai cánh tay của một xác chết không đầu miêu tả về điều này rõ ràng hơn.<ref>''Scène de cannibalisme sur le radeau de la Méduse''. Musée du Louvre département des Arts graphiques, RF 53032, recto. [[Joconde]] # 50350513324</ref>
Một số bức tranh Anh và Mỹ bao gồm bức ''[[Cái chết của Thiếu tá Pierson]]'' của [[John Singleton Copley]] (1738 — 1818) đã vẽ trong vòng hai năm kể từ khi sự kiện này xảy ra đã tạo tiền lệ cho những tác phẩm hội họa lấy chủ đề đương đại sau này. Copley cũng đã vẽ một bức họa kích cỡ lớn mang chủ đề anh hùng về các thảm họa trên biển mà Géricault có thể đã tham khảo từ các bản in của chúng. Một trong số đó là ''[[Watson và con cá mập]]'' (1778) miêu tả một người da đen là trung tâm của bức tranh. Và tương tự như ''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'', tác phẩm này tập trung vào nhân vật hơn là đại cảnh xung quanh. Ngoài ra ''[[Sự thất bại của pháo đài nổi tại Gibraltar, tháng 9 năm 1782]]'' (1791) và ''[[:Tập tin:SceneofaShipwreck-Copley.png|Cảnh một con tàu đắm]]'' (những năm 1790)
== Triển lãm và tiếp nhận ==
Dòng 115:
| nội dung="Chiếc bè đã đưa những kẻ sống sót tới giới hạn trải nghiệm của con người"
| nguồn=—Jonathan Miles<ref name="vietsciences"/>}}
''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' được trưng bày lần đầu tiên tại cuộc triển lãm tranh tại Paris năm 1819 dưới tiêu đề chung chung là ''Scène de Naufrage'' (Cảnh tàu đắm), mặc dù chủ đề thực sự của nó không thể nhầm lẫn cho người xem đương đại.<ref name=christiansen>Christiansen, Rupert. [http://www.nytimes.com/books/first/c/christiansen-01victorian.html The Victorian Visitors: Culture Shock in Nineteenth-Century Britain]". ''[[The New York Times|New York Times]]'', ngày 3 tháng 6 năm 2001. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2008.</ref> Chiếc bè của Géricault là ngôi sao của cuộc triển lãm lần này: "Nó đập vào mắt mọi người và kéo người xem vây quanh nó" (Le Journal de Paris). Vua [[Louis XVIII của Pháp|Louis XVIII]] đã đến thăm cuộc triển lãm ba ngày trước khi khai mạc, và theo như tường trình cho hay ''"{{lang|fr|Monsieur, vous venez de faire un naufrage qui n'en est pas un pour vous}}"'',<ref name=wrigley>Reported by Gérard, cited in: {{chú thích sách|last=Wrigley|first=Richard|title=The origins of French art criticism: from the Ancien Régime to the Restoration|year=1995|publisher=Clarendon Press|location=Oxford|isbn=978-0-19-817409-7|url=http://books.google.com/books?ei=211CTsblEc7Hsgbh0rXhBw|page=76}}</ref> tạm dịch là "Thưa ngài (Géricault), con tàu đắm của ngài nhất định không gặp tai ách".<ref name=barnes>{{chú thích sách|last=Barnes|first=Julian|title=A history of the world in 10 1/2 chapters|year=1990|publisher=Picador|location=Luân Đôn|isbn=0-330-31399-1|edition=Paperback |page=126}}</ref> Những nhà phân tích đều khá chia rẽ: sự rùng rợn và "terribilità"<ref group="Ghi chú">"Terribilità", hay "terribiltà" là một thuật ngữ trong [[tiếng Ý]], có thể được giải thích nôm na là "cái đẹp làm người ta khủng khiếp", để chỉ một phong cách nghệ thuật được áp dụng bởi Michelangelo (xem bài [[Michelangelo]] để biết thêm chi tiết).</ref> của đối tượng đem lại cho nó sự quyến rũ, nhưng điều đó không được những tín đồ trường phái cổ điển đồng tình, họ tỏ ra không thích thú với những gì họ mô tả như một "đống xác chết
[[File:The Medusa shown at the Louvre, in color.jpg|left|thumb|''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse tại Salon Carré ở Louvre'' của Nicolas Sebastien Maillot, 1831, [[Louvre]], miêu tả ''chiếc bè'' của Géricault được treo bên cạnh những tác phẩm của [[Nicolas Poussin|Poussin]], [[Claude Lorrain|Lorrain]], [[Rembrandt]] và [[Caravaggio]]<ref>
"[http://www.terraamericanart.org/exhibitions/index.asp?key=33&subkey=254 Morse's Gallery of the Louvre: A Transatlantic Mission] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20120330112036/http://www.terraamericanart.org/exhibitions/index.asp?key=33&subkey=254 |date=30 tháng 3 năm 2012 }}". Terra Foundation for American Art. Bản lưu trữ ngày 24 tháng 1 năm 2008.
</ref>]]
Géricault đã cố tình tìm kiếm sự đối đầu cả về mặt nghệ thuật lẫn chính trị. Các nhà phê bình đã phản ứng với cách tiếp cận ngông cuồng của Géricault một cách tử tế. Phản ứng của họ là chống đối hoặc khen ngợi, tùy thuộc vào người viết đồng cảm với quan điểm ủng hộ của [[Nhà Bourbon|hoàng gia Bourbon]] hay chủ nghĩa tự do. Bức tranh được xem là đã thể hiện sự đồng cảm với những con người trên bè và bao gồm cả chính nghĩa chống lại chủ nghĩa thực dân của những con người đã sống sót qua vụ thảm họa là Savigny và Corréard.<ref name="Christine" /> Quyết định đặt một người da đen ở cực điểm của tác phẩm là một biểu hiện gây tranh cãi về sự đồng cảm với chủ nghĩa bãi nô của Géricault. Nhà phê bình nghệ thuật Christine Riding đã suy đoán rằng Géricault sau này đã lên kế hoạch đưa bức tranh đi triển lãm ở Luân Đôn để tranh thủ sự ủng hộ từ phong trào ủng hộ bãi nô đang diễn ra ở đó.<ref>Riding (tháng 6 năm 2003), 71</ref> Theo nhà phê bình và giám tuyển nghệ thuật [[Karen Wilkin]], bức tranh của Géricault đóng vai trò như một "bản cáo trạng về những hành động bất lương, dối trá của tầng lớp quan chức của Pháp thời kỳ hậu Napoléon, vốn phần lớn được tuyển dụng từ tầng lớp con ông cháu cha của các gia đình đang còn tồn tại của ''[[Ancien Régime]]'' (Chế độ cũ)".<ref name="Wilkin2">[[Karen Wilkin|Wilkin, Karen]]. "Romanticism at the Met". ''[[The New Criterion]]'', Quyển 22, Tái bản lần 4, tháng 12 2003. 37</ref>
[[File:Egyptian Hall, Piccadilly 1815 edited.jpg|thumb|Năm 1820, Géricault đã trưng bày thành công bức tranh tại [[Hội trường Ai Cập]] ở [[Piccadilly]], Luân Đôn.]]
Bức tranh nói chung đã gây ấn tượng mạnh với công chúng xem dù chủ đề của nó khiến nhiều người không ngó tới nó. Điều đó khiến Géricault không đạt được sự đón nhận mà ông đã kỳ vọng.<ref name=christiansen/> Vào cuối triển lãm, bức tranh đã được ban giám khảo trao tặng huy chương vàng, nhưng họ không cho tác phẩm một phần thưởng thanh thế hơn – lựa chọn nó cho bộ sưu tập quốc gia của Louvre. Thay vào đó, Géricault được đặt vẽ một bức tranh mang chủ đề [[Thánh Tâm Chúa Giêsu]], công việc mà ông đã bí mật chuyển cho Delacroix vẽ, rồi sau khi tác phẩm hoàn thành, ông đã ký tên vào đó và nói tác phẩm đó là do mình đã vẽ.<ref name=christiansen/> Géricault rút lui về vùng nông thôn, nơi ông suy sụp vì kiệt sức và những tác phẩm không bán được của ông đều đã được cuộn lại và
Géricault đã sắp xếp cho bức tranh
[[File:Raft-of-the-Medusa-copy.jpg|thumb|left|Bản sao kích cỡ thật của Pierre-Désiré Guillemet và Étienne-Antoine-Eugène Ronjat, 1859–60, 493 cm × 717 cm, Bảo tàng Picardie, [[Amiens]]<ref name=smith/>]]
''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' đã được người phụ trách [[bảo tàng Louvre]], [[Louis Nicolas Philippe Auguste de Forbin|Bá tước Forbin]], mua lại từ người thừa kế của Géricault sau khi ông qua đời vào năm 1824. Bức tranh hiện đang thống trị căn phòng trưng bày của nó ở Louvre. Dòng chữ ghi chú bên dưới bức tranh ghi rằng "người anh hùng duy nhất trong câu chuyện đầy thương tâm này là nhân loại".<ref name="Louvre" />
Vào một thời điểm giữa năm 1826 và
Athanassoglou-Kallmyer, Nina & De Filippis, Marybeth. "[http://www.19thc-artworldwide.org/spring_07/articles/newd_atha_print.html New Discoveries: An American Copy of Géricault's Raft of the Medusa?] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20090315065618/http://www.19thc-artworldwide.org/spring_07/articles/newd_atha_print.html |date=15 tháng 3 năm 2009 }} ". [[New York Historical Society]]. Bản lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2008.
</ref> Nó được một cựu đô đốc tên là Uriah Phillips mua lại. Vào năm 1862, ông đã chuyển giao nó lại cho [[New-York Historical Society]], nơi nó bị phân loại sai thành một tác phẩm của một vị họa sĩ nổi tiếng khác của Hoa Kỳ là [[Gilbert Stuart]]. Sai lầm này vẫn không được phát hiện cho tới tận một cuộc điều tra diễn ra vào năm 2006 do Nina Athanassoglou-Kallmy,
Do tác phẩm gốc Géricault đang trong tình trạng xuống cấp, bảo tàng Louvre vào những năm 1859–1860 đã ủy quyền cho hai nghệ sĩ người Pháp, Pierre-Désiré Guillemet và Étienne-Antoine-Eugène Ronjat tạo ra một bản sao kích thước giống hệt bản gốc nhằm phục vụ các buổi triển lãm.<ref name=smith>Smith, Roberta. "[https://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9A02EEDF173FF933A25753C1A9659C8B63&sec=&spon=&pagewanted=all Art Review; Oui, Art Tips From Perfidious Albion]". ''[[The New York Times]]'', 10 tháng 10 năm 2003. Bản lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2009.</ref>
Dòng 142:
[[File:David - The Death of Socrates.jpg|thumb|[[Jacques-Louis David]], ''[[Cái chết của Socrates]]'' 1787, 129.5 cm × 196.2 cm, [[Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan]]. David là người đại diện cho phong cách [[Tân cổ điển]], cái Géricault tìm cách phá vỡ.]]
Khi nhấn mạnh vào việc miêu tả một sự thật khó chịu, ''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' là một bước ngoặt trong [[Chủ nghĩa lãng mạn|phong trào lãng mạn]] mới nổi của nền hội họa nước Pháp và "đặt nền móng cho một cuộc cách mạng mỹ học"<ref name="N14">Néret, 14–16</ref> chống lại phong cách [[Tân cổ điển]] thịnh hành lúc bấy giờ. Cấu trúc và cách mô tả nhân vật của Géricault tuy đậm chất cổ điển, nhưng sự hỗn loạn tương phản của chủ đề thể hiện một sự thay đổi đáng kể trong xu hướng nghệ thuật và tạo ra một cầu nối quan trọng giữa phong cách Tân cổ điển và Lãng mạn. Vào năm 1815, Jacques-Louis David, khi đó đang sống lưu vong ở [[Bruxelles]], vừa là người đi đầu của thể loại tranh lịch sử nổi tiếng – một thể loại mà ông đã quá hoàn hảo — vừa là bậc thầy của phong cách Tân cổ điển.<ref>"[http://www.getty.edu/art/exhibitions/david/ Jacques-Louis David: Empire to Exile]". [[Getty Museum]]. Bản lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2008.</ref> Ở Pháp, cả tranh lịch sử và phong cách tân cổ điển tiếp tục thể hiện qua tác phẩm của [[Antoine-Jean Gros]], [[Jean Auguste Dominique Ingres]], [[François Gérard]], [[Anne-Louis Girodet de Roussy-Trioson]], [[Pierre-Narcisse Guérin]] — sư phụ của cả Géricault và Delacroix — và những nghệ sĩ khác vẫn dành trọn tâm huyết với truyền thống nghệ thuật của David và [[Nicolas Muffsin]].
[[File:Gros - Napoleon on the Battlefield of Eylau cropped.png|thumb|left|upright|[[Antoine-Jean Gros]], chi tiết từ ''[[Napoléon trên chiến trường Eylau]]'', 1807, Louvre. Giống như Gros, Géricault đã từng nhìn thấy và chịu
Trong bài giới thiệu về ''Tạp chí Eugène Delacroix'', Hubert Wellington đã viết về ý kiến của Delacroix về tình trạng hội họa Pháp ngay trước Cuộc triển lãm tranh năm 1819. Theo Wellington, "Sự pha trộn gây tò mò giữa [phong cách] cổ điển với viễn
''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' tuy chứa đựng những cử chỉ và quy mô của một bức tranh lịch sử truyền thống nhưng nó miêu tả những con người bình dân, chứ không phải là anh hùng, trái ngược bối cảnh đang bày ra trước mắt.<ref name="Boime141">Boime, 141</ref> Chiếc bè của Géricault rõ ràng thiếu đi một người hùng và bức tranh của ông không chứa đựng lý do gì ngoài sự sống còn mong manh. Theo lời của Christine Riding thì tác phẩm đại diện "sự ảo tưởng hy vọng và đau khổ vô nghĩa và tệ nhất, bản năng cơ bản của con người để tồn tại đã khiến họ bỏ qua mọi khái niệm đạo đức và khiến con người văn minh trở nên man rợ".<ref name="Christine"/>
Cơ bắp không tì vết của nhân vật trung tâm vẫy tàu cứu hộ gợi nhớ đến các tình tiết trong hội họa Tân cổ điển, tuy nhiên tính tự nhiên của ánh sáng và bóng tối, sự tuyệt vọng chân thật được thể hiện bởi những người sống sót và những đặc điểm
Hubert Wellington nói rằng trong khi Delacroix là một người hâm mộ trọn đời của Gros, thì sự nhiệt tình thống trị tuổi trẻ của ông là dành cho Géricault. Những thành phần kịch tính trong tác phảm của Géricault, với sự tương phản mạnh mẽ và dáng điệu độc đáo, đã kích thích Delacroix tin tưởng vào sự thúc đẩy sáng tạo của chính mình cho một tác phẩm lớn. Delacroix đã từng nói, "Géricault đã cho tôi xem bức ''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' khi anh ấy vẫn còn đang thực hiện nó." Ảnh hưởng của bức tranh có thể được nhìn thấy trong bức tranh
[[File:Delacroix barque of dante 1822 louvre 189cmx246cm 950px.jpg|thumb|right|[[Eugène Delacroix]], ''[[Con thuyền của Dante]]'', 1822. Ảnh hưởng của ''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' đối với tác phẩm của Delacroix thời thanh xuân ngay lập tức được thể hiện rõ ràng trong bức tranh này, cũng như trong nhiều tác phẩm sau này của ông.<ref name="N14" />]]
Hàng 163 ⟶ 162:
[[File:Eugène Delacroix - Le Massacre de Scio.jpg|thumb|left|upright|Eugène Delacroix, ''[[Thảm sát tại Chios]]'', 1824, 419 cm × 354 cm, Louvre. Bức tranh này bắt nguồn trực tiếp từ ''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' của Géricault và được vẽ vào năm 1824, năm Géricault qua đời.<ref>Wellington, 19–49</ref>]]
Trong khi [[Gustave Courbet]] (1819–1877) có thể được mô tả như một họa sĩ phản-lãng mạn, thì các tác phẩm chính của ông như ''Lễ an táng tại Ornans'' (
Clark, T.J. ''Farewell to an Idea''. Yale University Press, 2001. 21. {{ISBN|0-300-08910-4}}</ref> và ghi chép lại những con người, địa điểm và những sự kiện hàng ngày trong môi trường thực tế. Tại Triển lãm năm 2004 tại [[Viện Nghệ thuật Clark]], ''Bonjour Monsieur Courbet: Bộ sưu tập Bruyas từ Musee Fabre, Montpellier'', đã tìm cách so sánh các họa sĩ của chủ nghĩa hiện thực thế kỷ 19 bao gồm Courbet, [[Honoré Daumier]] (1808–1879) và [[Édouard Manet]] (1832–1883) với các nghệ sĩ gắn liền với Chủ nghĩa lãng mạn như Géricault hay Delacroix. Cuộc triển lãm đã thu hút những sự so sánh giữa tất cả các nghệ sĩ và trích dẫn rằng ''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' như một công cụ ảnh hưởng đến [[chủ nghĩa hiện thực]].<ref>
Giuliano, Charles. "[http://www.maverick-arts.com/cgi-bin/MAVERICK?action=article&issue=148 Courbet at the Clark] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20110930060446/http://www.maverick-arts.com/cgi-bin/MAVERICK?action=article&issue=148 |date=30 tháng 9 năm 2011 }} ". ''Maverick Arts Magazine''. Bản lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2008.
Hàng 176 ⟶ 175:
''Dòng Vịnh'' (1899) bởi họa sĩ người Mỹ [[Winslow Homer]] (1836–1910), sao chép bố cục của ''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' với một con tàu bị nạn bị vây quanh bởi một bầy [[cá mập]] trong khi họ đang bị một [[vòi rồng nước]] đe dọa. Cũng giống như Géricault, Homer biến một người đàn ông da đen thành nhân vật chính trong cảnh, mặc dù ở đây anh ta là người duy nhất ở trên tàu. Một con tàu ở đằng xa gợi nhớ đến con tàu ''Argus'' trong họa phẩm của Géricault.<ref name="Dorment">Dorment, Richard. "Painting the Unpaintable". ''The New York Review of Books''. 27 tháng 9 năm 1990.</ref> Sự dịch chuyển từ kịch chủ nghĩa lãng mạn sang chủ nghĩa hiện thực được minh họa bằng sự cam chịu khắc kỷ của nhân vật chính trong tranh. Trong các tác phẩm trước đó, các nhân vật chính có thể được miêu tả bằng các biểu hiện của sự hy vọng hoặc bất lực.<ref>Griffin, Randall C. ''Homer, Eakins & Anshutz: The Search for American Identity in the Gilded Age''. Penn State Press, 2004. 102. {{ISBN|0-271-02329-5}}</ref> Tuy nhiên, trong tác phẩm của Homer, trạng thái nhân vật đã chuyển thành "thịnh nộ".<ref name="Dorment" />
Đầu những năm 1990, nhà điêu khắc [[John Connell]] đã tái tạo nên bức hoạ ''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' bằng cách tạo ra các tác phẩm điêu khắc bằng gỗ kích thước thật, dùng giấy và nhựa đường và đặt chúng lên một chiếc bè gỗ lớn
Nhận xét về sự tương phản giữa các nhân vật đang hấp hối ở tiền cảnh và các nhân vật ở giữa nền bè đang vẫy về phía con tàu cứu hộ đang đến gần, nhà sử học nghệ thuật người Pháp [[Georges-Antoine Borias]] cho rằng bức tranh của Géricault đại diện cho "[hai khía cạnh khác nhau:] một mặt
Đối với Kenneth Clark, ''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' "vẫn là một ví dụ tiêu biểu của nghệ thuật lãng mạn thể hiện
Ngày nay, một bức phù điêu bằng đồng của ''Chiếc bè của chiến thuyền Méduse'' của [[Antoine Étex]] được trang trí tại mộ
{{clear}}
|