Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chiến tranh Lạnh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up using AWB
Dòng 5:
| width =
| partof =
| image = [[FileTập tin:Infobox collage for Cold War.png|300px]]<br>[[FileTập tin:Cold War Map 1959.svg|300px]]
| image_size =
| alt =
Dòng 49:
{{Lịch sử Chiến tranh Lạnh}}
 
'''Chiến tranh Lạnh''' ([[tiếng Anh]]: '''Cold War''') là thời kì căng thẳng địa [[chính trị]] giữa [[Liên Xô]] và những quốc gia vệ tinh ([[khối Đông Âu]]) với [[Hoa Kỳ]] với những đồng minh ([[Tây Âu|Khối phương Tây]]) sau [[Thế chiến II]]. ''Chiến tranh Lạnh'' bắt đầu từ năm 1946 khi năm bức điện báo với tựa đề ''Long Telegram'' của nhà ngoại giao Hoa Kì [[George F. Kennan|George F. Kennan]] từ [[Moskva]] đã đề ra một chính sách đối ngoại của [[Hoa Kỳ]] về việc ngăn chặn cái mà nước này gọi là chủ nghĩa bành trướng của [[Liên Xô]] và năm 1947 với sự ra đời của [[Học thuyết Truman]]. ''Chiến tranh Lạnh'' kết thúc với [[Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu]] (khi các nước cộng hòa thành viên của [[Liên bang xô-viết|Liên bang Xô viết]] đã tuyên bố độc lập) và dẫn đến sự kết thúc hoàn toàn của Chiến tranh lạnh. Thuật ngữ ''lạnh'' được sử dụng bởi vì không có sự chiến đấu trực tiếp diện rộng giữa hai cường quốc, nhưng họ đã ủng hộ những cuộc xung đột ở các nước được biết như là những cuộc [[chiến tranh ủy nhiệm]] (proxy wars).
 
Những nước tư bản phương Tây được dẫn dắt bởi [[Hoa Kỳ]], một quốc gia theo thể chế [[cộng hòa liên bang]] với hệ thống chính trị [[đa đảng]], cũng như những quốc gia ''First-World'' (chỉ những quốc gia liên kết chung với [[NATO]] hoặc chống lại [[Liên Xô]] trong Chiến tranh lạnh). Đại đa số các quốc gia ''First-World'' là các nước [[cộng hòa]] hoặc [[quân chủ lập hiến]] cũng với hệ thống chính trị đa đảng và những tổ chức độc lập, nhưng về mặt kinh tế và chính trị thì bị ràng buộc chặt chẽ với mạng lưới của những quốc gia cộng hòa nhỏ bé và các chế độ [[độc tài]] khác, hầu hết trong số đó từng là các thuộc địa cũ của Khối phương Tây{{sfn|G. Jones |2014 |pp=176–79}}. [[Liên Xô]] tự tuyên bố mình là một quốc gia theo [[Chủ nghĩa Marx-Lenin]] áp dụng hệ thống chính trị [[độc đảng]] được lãnh đạo bởi một cấp lãnh đạo cao nhất là [[Bộ Chính trị|Bộ chính trị]]. Đảng cộng sản lãnh đạo toàn bộ quốc gia, báo chí, quân sự, kinh tế và những tổ chức địa phương khắp ''Second World'' (''Second World'' chỉ những quốc gia vệ tinh hoặc đồng minh của [[Liên Xô]]), bao gồm những thành viên của [[Hiệp ước Warsaw]] và những quốc gia khác theo [[Hệ thống xã hội chủ nghĩa|Hệ thống XHCN]]. [[Điện Kremlin]] đã tài trợ tiền của cho những đảng cộng sản trên khắp thế giới nhưng bị thách thức quyền lực bởi [[Cộng hòa nhân dân Trung Hoa]] của [[Mao Trạch Đông]] theo sau đó là sự [[Chia rẽ Trung-Xô|chia rẽ Trung Quốc-Liên Xô]] vào khoảng những năm 1960. Gần như tất cả các quốc gia thuộc địa đã giành được độc lập trong khoảng thời gian 1945-1960, họ đã trở thành ''Third World'' (những quốc gia trung lập) trong Chiến tranh Lạnh.{{sfn|G. Jones |2014 |pp=176–79}}
 
[[Ấn Độ]], [[Indonesia]] và [[Nam Tư]] đã đi đầu trong việc thúc đẩy tính trung lập với [[Phong trào không liên kết|Phong trào Không liên kết]], nhưng các quốc gia này không bao giờ có nhiều [[quyền lực]] theo đúng nghĩa. Liên Xô và Hoa Kỳ chưa từng tham gia trực tiếp vào một cuộc chiến tranh vũ trang toàn diện. Tuy nhiên, cả hai đều vũ trang mạnh mẽ để chuẩn bị cho một [[Chiến tranh hạt nhân|cuộc chiến tranh hạt nhân toàn diện]] có thể xảy ra. Trung Quốc và Hoa Kỳ đã tham chiến trong một cuộc chiến tranh có thương vong cao [[Chiến tranh Triều Tiên|tại Triều Tiên]] (1950-53) mà kết thúc với sự bế tắc. Mỗi bên đều có một chiến lược hạt nhân riêng nhằm ngăn cản một cuộc tấn công của phía bên kia, trên cơ sở một cuộc tấn công như vậy sẽ dẫn đến sự hủy diệt hoàn toàn của kẻ tấn công - Học thuyết về sự hủy diệt lẫn nhau được đảm bảo (MAD). Bên cạnh những [[Cuộc đua vũ khí hạt nhân|phát triển kho vũ khí hạt nhân của cả hai bên]], và triển khai của họ về lực lượng quân sự thông thường, cuộc đấu tranh cho vị trí thống trị được thể hiện qua các cuộc [[chiến tranh ủy nhiệm]] trên toàn cầu, [[chiến tranh tâm lý]], chiến dịch tuyên truyền lớn, [[Hoạt động gián điệp thời Chiến tranh Lạnh|hoạt động gián điệp]], cấm vận, sự ganh đua ở các môn [[thể thao]] tại các giải đấu và các chương trình công nghệ như [[Chạy đua vào không gian|Cuộc chạy đua vào không gian]].
Dòng 177:
Sau một bài phân tích của [[George Kennan]], một nhà chính trị Mỹ ở [[Moskva]], nội dung chủ yếu là chủ nghĩa cộng sản không thể bị đánh đổ một cách nhanh chóng, Mỹ thừa nhận việc các nước Đông Âu sẽ thuộc về tầm ảnh hưởng của Liên Xô. Nhưng đồng thời, Mỹ cũng thúc giục những hành động nhằm loại bỏ chủ nghĩa cộng sản khỏi Tây Âu, kể cả ở Liên Xô.
 
Ngày 12 tháng 3 năm 1947, Tổng thống [[Harry S. Truman]] đã tuyên bố Mỹ sẽ tích cực hỗ trợ việc chống lại các phong trào cộng sản chủ nghĩa, đây là chính sách chính thức của ngoại giao Hoa Kỳ được gọi là [[Học thuyết Truman]]. Tổng thống Truman tuyên bố rằng: ''"Hầu như mọi quốc gia đều phải chọn những cách sống khác nhau. Và sự lựa chọn thường không phải là một sự lựa chọn tự do. Một cách là dựa vào ý muốn của số đông... Cách thứ hai là dựa vào ý muốn của số ít một cách bắt buộc... Tôi tin tưởng rằng các đường lối của Mỹ là ủng hộ những con người tự do, những người đang chống lại sự phụ thuộc theo số ít (có vũ trang) hoặc bằng áp lực. Tôi tin tưởng rằng chúng ta phải giúp đỡ những con người tự do để họ quyết định số phận của mình bẳng những cách riêng của họ."''<ref>{{citechú bookthích sách|author=Michael Beschloss|title=Our Documents: 100 Milestone Documents From The National Archives|url=https://books.google.com/books?id=qqDA6OGvhmUC&pg=PA194|year=2006|publisher=Oxford University Press|pages=194–99|isbn=978-0-19-530959-1}}</ref>
 
Dựa vào học thuyết Truman, Hoa Kỳ đã đem quân can thiệp vào tình hình chiến sự của một loạt các quốc gia khác trên thế giới: ủng hộ phe bảo hoàng trong [[nội chiến Hy Lạp]], ủng hộ [[Nam Triều Tiên]] chống lại cuộc tấn công của Bắc Triều Tiên trong [[chiến tranh Triều Tiên]], ủng hộ [[thực dân Pháp]] quay trở lại xâm lược Việt Nam trong [[chiến tranh Đông Dương]], và cho quân viễn chinh tham chiến trong [[chiến tranh Việt Nam]].
Dòng 321:
===Mùa xuân Praha===
{{chính|Mùa xuân Praha}}
Khi [[Alexander Dubček]] lên nắm quyền lực ở [[Tiệp Khắc]], ông đã tiến hành một loạt các biện pháp nhằm phi tập trung hóa nền kinh tế và cải cách chính trị đất nước. Các quyền tự do được trao gồm nới lỏng các hạn chế với truyền thông, ngôn luận và đi lại <ref>Ello (ed.), Paul (April 1968). Control Committee of the Communist Party of Czechoslovakia, "Action Plan of the Communist Party of Czechoslovakia (Prague, April 1968)" in ''Dubcek's Blueprint for Freedom: His original documents leading to the invasion of Czechoslovakia.'' William Kimber & Co. 1968, pp 32, 54</ref><ref>{{Chú thích web |họ=Von Geldern |tên=James |họ 2=Siegelbaum |tên 2=Lewis|nhà xuất bản=Soviethistory.org|tiêu đề=The Soviet-led Intervention in Czechoslovakia|url=http://soviethistory.org/index.php?action=L2&SubjectID=1968czechoslovakia&Year=1968|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20090817200255/http://soviethistory.org/index.php?action=L2&SubjectID=1968czechoslovakia&Year=1968|ngày lưu trữ=ngày 17 Augusttháng 8 năm 2009|ngày truy cập=ngày 7 Marchtháng 3 năm 2008 }}</ref><ref name="Gaddis 2005, p. 150">{{Harvnb|Gaddis|2005|p=150}}</ref>. Dubček cũng tuyên bố rút Tiệp Khắc ra khỏi khỏi Khối hiệp ước Warszawa. Những cuộc cải cách diễn ra tại Tiệp Khắc đã không được [[Liên Xô]] ủng hộ, và một số lãnh đạo thân Liên Xô trong Đảng Cộng sản Tiệp Khắc (gồm Biľak, Švestka, Kolder, Indra, và Kapek) cũng phản đối Dubček, họ đã gửi một yêu cầu tới chính phủ Liên Xô đề nghị can thiệp<ref>Fowkes (2000), pp 64–85</ref> Sau những cuộc đàm phán không thành công, Liên Xô đã gửi hàng nghìn quân của Khối hiệp ước Warszawa cùng xe tăng tấn công vào Tiệp Khắc <ref>{{citechú newsthích báo|url=http://news.bbc.co.uk/onthisday/hi/dates/stories/august/21/newsid_2781000/2781867.stm|title=Russia brings winter to Prague Spring|publisher=BBC News|date=ngày 21 Augusttháng 8 năm 1968|accessdate=ngày 10 Junetháng 6 năm 2008}}</ref> Cuộc tấn công được tiến hành theo [[Học thuyết Brezhnev]], một chính sách buộc các quốc gia Khối Đông Âu gắn kết lợi ích quốc gia vào lợi ích của Khối như một tổng thể và thực thi quyền can thiệp của Xô viết nếu một quốc gia thuộc khối có biểu hiện đi theo tư bản chủ nghĩa.<ref>{{Harvnb|Grenville|2005|p=780}}</ref><ref>{{chú thích sách | last = Chafetz| first = Glenn | title = Gorbachev, Reform, and the Brezhnev Doctrine: Soviet Policy Toward Eastern Europe, 1985–1990| date = [[ngày 30 tháng 4 năm 1993]]| publisher = Praeger Publishers| url = | isbn = 0275944840 |page= 10}}</ref> Lãnh đạo Tiệp Khắc ra lệnh không kháng cự nên sự kiện này diễn ra ít đổ máu, nhưng cuộc tấn công dẫn tới một làn sóng di cư gồm khoảng 70.000 người Séc trong giai đoạn đầu, và tổng thể sau đó lên tới 300.000 người đã chạy sang nước khác.<ref>{{Chú thích web | họ = Čulík| tên = Jan| tiêu đề = Den, kdy tanky zlikvidovaly české sny Pražského jara| url = http://www.britskelisty.cz/9808/19980821h.html| nhà xuất bản = Britské Listy| ngày truy cập = ngày 23 tháng 1 năm 2008 }}</ref> Cuối cùng Dubček bị lật đổ và [[Gustáv Husák]], người thay thế Dubček và cũng trở thành Chủ tịch nước, đã đảo ngược hầu hết các biện pháp cải cách tiến bộ của ông.
 
Sự kiện ở Praha xảy ra đã làm nhiều người cánh tả ở phương Tây có quan điểm [[Chủ nghĩa Mác-Lenin|Mác - Lenin]] thất vọng với Liên Xô. Nó góp phần vào sự phát triển của các ý tưởng của [[chủ nghĩa Cộng sản Tây Âu]] trong các đảng cộng sản phương Tây, các đảng này tách xa khỏi Liên Xô và thi hành các đường lối đấu tranh riêng tại quốc gia của họ<ref>Aspaturian (1980), p 174</ref>.
Dòng 416:
''Bài chi tiết:'' [[Chiến tranh bẩn thỉu]], và [[Chiến tranh Falkland]]
 
Khi [[Salvador Allende]], một người có tư tưởng [[xã hội chủ nghĩa]], trở thành tổng thống [[Chile]] vào năm 1970, tổng thống Mỹ Nixon đã ra lệnh cho CIA lên kế hoạch lật đổ Allende. Để đáp trả lại việc Allende quốc hữu hóa các mỏ đồng và các nhà máy của Mỹ, chính phủ Mỹ đã cắt giảm buôn bán với Chile tạo ra tình trạng khan hiếm và hỗn loạn kinh tế tại quốc gia này (Mỹ là đối tác thương mại hàng đầu của Chile khi đó). CIA và bộ ngoại giao Mỹ đã thực hiện chiến dịch tuyên truyền chống lại Allende ở Chile trong suốt một thập kỷ, tài trợ cho các chính khách bảo thủ, các đảng phái, các công đoàn, các nhóm sinh viên và tất cả các dạng truyền thông, trong khi mở rộng mối quan hệ với quân đội. Nền kinh tế của Chile dưới thời Allende ngày càng lún sâu vào khủng hoảng. Cuối cùng ông ta bị lật đổ bởi cuộc đảo chính quân sự do [[Augusto Pinochet]] cầm đầu. Sau khi Pinochet lên nắm quyền, Mỹ đã ủng hộ chiến dịch truy quét những người cộng sản của Pinochet (Chiến dịch Kền kền khoang), chiến dịch mà ông ta xem là cần thiết để để cứu đất nước thoát khỏi [[chủ nghĩa cộng sản]]. Chiến dịch này đã gây nên cái chết của 3000 người. Tuy vậy Chile đã có sự phát triển nhanh về kinh tế trong những năm Pinochet cầm quyền, đến nỗi nhiều người đã ca tụng đó là "Phép màu Chile" <ref>{{citechú bookthích sách|last=Angell|first=Alan|title=The Cambridge History of Latin America, Vol. VI, 1930 to the Present. Ed. Leslie Bethell|publisher=Cambridge University Press|year=1991|location=Cambridge; New York|page=368|url= https://books.google.co.uk/books?id=cbhOISlOv3MC|isbn=978-0-521-26652-9}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=https://insightsur.com/2012/04/23/on-the-miracle-of-chile-and-pinochet/|tiêu đề=On the "Miracle of Chile" and Pinochet|ngày tháng=ngày 23 Apriltháng 4 năm 2012|nhà xuất bản=}}</ref>.
 
===Châu Á===
Dòng 436:
Cuộc Cách mạng Bồ Đào Nha năm 1974 đã lật đổ nhà độc tài [[Estado Novo]], tạo điều kiện cho các thuộc địa của [[Bồ Đào Nha]] tại [[châu Phi]] là [[Angola]] và [[Mozambique]] giành độc lập không lâu sau đó. Sau khi giành độc lập, [[Angola]] lâm vào một cuộc [[Nội chiến Angola|nội chiến]] đẫm máu kéo dài hai thập kỷ giữa một bên là lực lượng MPLA (Phong trào nhân dân Giải phóng Angola) được khối xã hội chủ nghĩa (đặc biệt là Liên Xô và Cuba) ủng hộ, và một bên là Liên minh Quốc gia vì sự độc lập toàn vẹn của Angola (UNITA) được Mỹ ủng hộ. Ngoài ra còn một phe thứ ba nữa là Mặt trận Dân tộc Giải phóng Angola (FNLA) có vai trò không đáng kể trong cuộc nội chiến. Tất cả các lực lượng nước ngoài rút khỏi Angola vào năm 1989. Đến năm [[2002]], cuộc nội chiến kết thúc với thắng lợi dành cho MPLA.
 
Ở [[Ethiopia]], vị hoàng đế thân Mỹ Haile Selassie bị lật đổ bởi những người cộng sản do [[Mengistu Haile Mariam]] cầm đầu. Mengistu trở thành Tổng thống của nước [[Cộng hòa Nhân dân Ethiopia]]. Trong 2 năm 1977-1978, Mengistu củng cố quyền lực của mình bằng việc đàn áp tàn bạo các nhóm đối lập và những người chống đối chính quyền, gây nên cái chết của khoảng 500.000 người <ref>Fitzgerald, ''Tyrant for the taking'' in {{citechú bookthích sách |last=White |first=Matthew |title=Atrocitology |url=http://www.bookofhorriblethings.com/ |accessdate =2013-03- ngày 21 tháng 3 năm 2013 |year=2011 |publisher=Canongate |location=Edinburgh |page=615}}</ref><ref>Rapoport, ''Knives Are Out'' in {{citechú bookthích sách |last=White |first=Matthew |title=Atrocitology |url=http://www.bookofhorriblethings.com/ |accessdate =2013-03- ngày 21 tháng 3 năm 2013 |year=2011 |publisher=Canongate |location=Edinburgh |page=615}}</ref>. Tháng 7 năm 1977, [[Somali]] bất ngờ đem quân tấn công Ethiopia. Liên Xô phản đối hành động xâm chiếm và ngừng ủng hộ Somalia, chuyển qua bắt đầu ủng hộ Ethiopia, ngược lại Hoa Kỳ quay sang ủng hộ Somalia. Cuộc xung đột này còn được biết tới với cái tên [[Chiến tranh Ogaden]]. Chiến sự kết thúc khi Quân đội Somalia rút lui về bên kia biên giới và tuyên bố một thỏa thuận đình chiến.
Đến năm 1990, Mengistu tuyên bố ông ta từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, và bắt đầu tiến hành mở cửa nền kinh tế. Tuy nhiên, tháng 5 năm 1991, mặt trận dân chủ nhân dân Ethiopia (EPRDF) lật đổ Mengistu, ông ta sau đó phải tị nạn tại Zimbabwe.
 
Dòng 443:
{{see|Ronald Reagan}}
 
Vào năm 1980, [[Ronald Reagan]] đã đánh bại Jimmy Carter trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Khi trở thành tổng thống, Reagan đã đảo ngược chính sách "''Giảm căng thẳng''" với [[Liên Xô]], tăng mạnh chi tiêu cho quân sự và quyết tâm loại bỏ tầm ảnh hưởng của Liên Xô ở mọi nơi trên thế giới <ref>{{Harvnb|Gaddis|2005|p=189}}</ref>. Reagan gọi Liên Xô là "đế quốc tà ác" đồng thời tuyên bố rằng [[chủ nghĩa cộng sản]] sẽ sớm sụp đổ và sẽ bị bỏ lại trong "đống tro tàn của lịch sử" <ref>Robert C. Rowland, and John M. Jones. ''Reagan at Westminster: Foreshadowing the End of the Cold War'' (Texas A&M University Press; 2010)</ref><ref>[http://www.parliament.uk/commons/lib/research/notes/snpc-04092.pdf Speeches to Both Houses], Parliamentary Information List, Standard Note: SN/PC/4092, Last updated: Novemberngày 27, tháng 11 năm 2008, Author: Department of Information Services</ref>. Thủ tướng Anh Thatcher cũng lên án mạnh mẽ Liên Xô và tố cáo chính quyền Liên Xô "Âm mưu thống trị thế giới" <ref name="Gaddis 2005, p. 197">{{Harvnb|Gaddis|2005|p=197}}</ref><ref>https://www.rt.com/op-edge/thatcher-ussr-cold-war-gorbachev-528/</ref>.
 
Dưới một chính sách chống cộng quyết liệt được biết đến như [[học thuyết Reagan]], Reagan và chính phủ của ông cung cấp trợ giúp công khai và cả bí mật cho các phong trào chống cộng sản trên toàn thế giới đặc biệt là tại Châu Phi, châu Á và châu Mỹ Latin với mục tiêu lật đổ các chính phủ cộng sản do Liên Xô hậu thuẫn tại những khu vực này.
Dòng 471:
Vào tháng 4 năm 1978, Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan (PDPA) đã lên nắm quyền lực ở Afghanistan sau cuộc [[Cách mạng Saur]] và tuyên bố đưa đất nước đi theo [[chủ nghĩa cộng sản]]. Tình hình bắt đầu trở thành nghiêm trọng sau một loạt những sáng kiến cải cách của chính phủ của Tổng thống Taraki với mục tiêu nhổ bật "gốc rễ chế độ phong kiến" trong xã hội Afghanistan<ref>[http://law.upenn.edu/~ekohlman/afghanistan.pdf Bennett Andrew(1999); ''A bitter harvest: Soviet intervention in Afghanistan and its effects on Afghan political movements''](Truy cập 4 tháng 2 năm 2007)</ref>. Những biện pháp cải cách đó mang lại một số thay đổi tiến bộ, nhưng chúng được thực hiện theo cách thức tàn bạo và vụng về<ref>[https://archive.is/20121212041044/lcweb2.loc.gov/cgi-bin/query/r?frd/cstdy:@field(DOCID+af0087) ''The April 1978 Coup d'etat and the Democratic Republic of Afghanistan'' - Library of congress country studies](Truy cập 4 tháng 2 năm 2007)</ref>. Xã hội nông thôn Afghanistan phần lớn vẫn tuân theo truyền thống Hồi giáo và các bộ tộc, và những cuộc cải cách ruộng đất đe dọa những nền móng của nó; tương tự việc cải cách giáo dục và tăng quyền tự do cho phụ nữ bị coi là hành động tấn công Đạo Hồi. Vì thế, sự phản kháng chống lại những cuộc cải cách ngày càng mạnh mẽ hơn. Trong vòng vài tháng, phe đối lập với chính phủ đã khởi xướng một cuộc nổi dậy ở miền đông [[Afghanistan]], cuộc nổi dậy nhanh chóng mở rộng thành một cuộc nội chiến do các chiến binh nổi dậy, được gọi là [[Mujahideen]], tiến hành chống lại các lực lượng của chính phủ Afghanistan trên toàn quốc. Mujahideen coi việc người Cơ đốc hay người Xô viết vô thần kiểm soát Afghanistan là một điều "báng bổ Hồi giáo" cũng như văn hóa truyền thống của họ. Họ đã công bố một cuộc “jihad” (thánh chiến) với mục tiêu lật đổ chính phủ Afghanistan. Những người nổi dậy Mujahideen đã được huấn luyện quân sự và cung cấp vũ khí bởi Pakistan và Trung Quốc, trong khi Liên Xô gửi hàng ngàn cố vấn quân sự để hỗ trợ chính phủ PDPA. Vào giữa năm 1979, Hoa Kỳ đã bắt đầu một chương trình bí mật để cung cấp vũ khí cho những chiến binh mujahideen.
 
Đến tháng 4 năm 1979, Afghanistan thực sự rơi vào tình trạng hỗn loạn. Chính phủ Afghanistan đã thẳng tay trấn áp những người phản đối, tử hình hàng ngàn tù nhân chính trị và ra lệnh giết hại dân thường không vũ trang <ref name=kepel-2002-138>{{citechú thích booksách|last1=Kepel|first1=Gilles|title=Jihad: The Trail of Political Islam|date=2002|publisher=I.B.Tauris.|page=138|url=https://books.google.com/books?id=OLvTNk75hUoC&pg=PA138 |isbn=978-1-84511-257-8}}</ref>, khiến những nhóm vũ trang chống lại chính phủ ngày càng nhận đuơc sự ủng hộ của nhân dân. Vào tháng 9 năm 1979, Tổng thống Khalqist Nur Muhammad Taraki đã bị ám sát trong cuộc đảo chính do một thành viên của PDPA vốn bất bình với Taraki là Hafizullah Amin tiến hành, Amin sau đó đảm nhận chức tổng thống. Amin không nhận được sự tin tưởng từ Liên Xô, vì vậy vào ngày 24/12/1979 Liên Xô đã đổ quân vào Afghanistan và lật đổ chính quyền của Amin. Một chính quyền thân Liên Xô, đứng đầu là Babrak Karmal Parcham được dựng lên để lấp đầy khoảng trống quyền lực. Quân đội Liên Xô tiến vào Afghanistan với số lượng ngày một lớn với lí do là để đảm bảo ổn định tình hình tại Afghanistan dưới quyền Karmal. Tuy vậy, Hồng quân đã gặp phải sự phản kháng quyết liệt từ phe nổi dậy. Kết quả là Liên Xô đã dần dần bị lún sâu vào chiến sự tại Afghanistan. Quân đội Liên Xô chiếm giữ hầu hết các thành phố và các đường giao thông chính, trong khi mujahideen tiến hành [[chiến tranh du kích]] với các nhóm nhỏ hoạt động chủ yếu ở vùng nông thôn. Liên Xô đã sử dụng không quân ném bom trên quy mô lớn, san bằng các ngôi làng ở nông thôn vốn là nơi trú ẩn của các mujahideen, phá hủy các mương tưới tiêu quan trọng và khiến nhiều dân thường thiệt mạng. Các trận lụt sau đó làm phát sinh dịch sốt rét, nhất là ở tỉnh Nangarhar<ref name=LSA>{{cite journal|last1=Westermann|first1=Edward B.|title=The Limits of Soviet Airpower: The Failure of Military Coercion in Afghanistan, 1979–89|date=Fall 1999|volume=XIX|issue=2|url=https://journals.lib.unb.ca/index.php/jcs/article/view/4356/5011|accessdate=ngày 3 Octobertháng 10 năm 2015}}</ref>{{sfn|Kaplan|2008|p=128|ps=: "... the farmer told Wakhil [Kaplan's translator] about all the irrigation ditches that had been blown up by fighter jets, and the flooding in the valley and malaria outbreak that followed. Malaria, which on the eve of Taraki's Communist coup in April 1978 was at the point of being eradicated in Afghanistan, had returned with a vengeance, thanks to the stagnant, mosquito-breeding pools caused by the widespread destruction of irrigation systems. Nangarhar [province] was rife with the disease. This was another relatively minor, tedious side effect of the Soviet invasion."}}<ref name=TAYLOR-2014>{{cite journal|last1=TAYLOR|first1=ALAN|title=The Soviet War in Afghanistan, 1979 – 1989|journal=The Atlantic|date=Aug 4, 2014|url=https://www.theatlantic.com/photo/2014/08/the-soviet-war-in-afghanistan-1979-1989/100786/|accessdate=ngày 3 Octobertháng 10 năm 2015}}</ref>
 
[[Đại hội đồng LHQ]] thông qua nghị quyết phản đối sự can thiệp của Liên Xô<ref name="news.google.co.nz"/><ref name="ReferenceA">{{citechú newsthích báo|title=U.N. General Assembly Votes to Protest Soviet Invasion of Afghanistan|newspaper=Toledo Blade|date=Januaryngày 15, tháng 1 năm 1980|url=https://news.google.com/newspapers?id=MQwVAAAAIBAJ&sjid=jQIEAAAAIBAJ&pg=6049,7393411&dq=soviet+invasion+of+afghanistan&hl=en}}</ref>. Phương Tây coi cuộc tấn công của Liên Xô là hành vi "xâm lược", và Mỹ đã tuyên bố tẩy chay [[Thế vận hội 1980]] tại Moscow. Đáp trả lại, [[Liên Xô]] cũng tuyên bố tẩy chay [[Thế vận hội mùa hè 1984]] tại [[Los Angeles]]. Trong khi đó, [[Ấn Độ]], một đồng minh thân cận của Liên Xô, đã ủng hộ chiến dịch của Liên Xô và cung cấp hỗ trợ tình báo và tiếp vận quan trọng cho quân đội Liên Xô. Trong các quốc gia [[Khối Warszawa]], chỉ có [[România]] là chỉ trích Liên Xô.<ref>[http://www.moreorless.au.com/killers/ceausescu.html Ceausescu condemned the Soviet intervention] in Czechoslovakia in 1968 and invasion of Afghanistan in 1979.</ref> Liên Xô ban đầu lên kế hoạch để ổn định chính phủ dưới sự lãnh đạo mới của Karmal, và rút lui trong vòng sáu tháng hoặc một năm. Nhưng họ đã gặp phải sự phản kháng dữ dội từ các mujahideen và bị mắc kẹt trong một cuộc chiến đẫm máu kéo dài chín năm. Cái giá về quân sự cũng như về ngoại giao chẳng bao lâu là quá cao cho Liên Xô <ref name=crile1>{{citechú thích booksách|first=George|last=Crile|title=Charlie Wilson's War: The Extraordinary Story of the Largest Covert Operation in History|publisher=Atlantic Monthly Press|year=2003|isbn=0-87113-854-9}}</ref>. Vì đó là một cuộc chiến tranh dai dẳng nó thỉnh thoảng được ví là cuộc "[[chiến tranh Việt Nam]] của Liên Xô" hay "cái bẫy gấu" bởi báo chí Phương Tây<ref name="bear">{{chú thích sách|last=Yousaf, Mohammad & Adkin, Mark|title=Afghanistan, the bear trap: the defeat of a superpower|year=1992|publisher=Casemate|isbn=0-ngày 94 tháng 2 năm 1709|page=159}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=http://www.highbeam.com/doc/1P2-1252421.html|title=The Soviets' Vietnam|publisher=Washington Post|date=ngày 22 tháng 4 năm 1988|accessdate=ngày 22 tháng 12 năm 2011|author-link=Richard Cohen (columnist)|author=Richard Cohen}}</ref><ref>{{chú thích báo|url=https://news.google.com/newspapers?nid=1291&dat=19880424&id=DIBUAAAAIBAJ&sjid=nI0DAAAAIBAJ&pg=4618,8684307&hl=en|title=Afghanistan was Soviets' Vietnam|publisher=[[Boca Raton News]]|date=ngày 24 tháng 4 năm 1988|accessdate=ngày 22 tháng 12 năm 2011}}</ref> Năm 1989, Liên Xô rút quân về nước, trong khi chiến tranh giữa các phe phái ở Afganistan tiếp tục diễn ra cho tới khi Taliban lên nắm quyền.
Cuộc chiến đã có những tác động rất lớn đối với [[Liên Xô|Liên bang Xô viết]] và thường được nhắc đến như là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến [[lịch sử Liên bang Xô viết (1985-1991)|sự tan rã của Liên Xô]] vào năm 1991.
 
Dòng 493:
Từ giai đoạn ban đầu, các nhóm Contras nhận được hỗ trợ tài chính và [[quân sự]] từ [[Chính quyền liên bang Hoa Kỳ|Chính phủ Hoa Kỳ]], và sức mạnh quân sự của họ phụ thuộc vào sự hỗ trợ này. Sau khi [[Quốc hội Hoa Kỳ]] thông qua việc cấm hỗ trợ, chính quyền của Tổng thống [[Ronald Reagan|Reagan]] vẫn tiếp tục âm thầm hỗ trợ contras. Các hành vi âm thầm hỗ trợ này đã lên đến đỉnh điểm trong vụ Iran-Contra.
 
Trong cuộc chiến chống lại Chính phủ Nicaragua, lực lượng Contras đã có hàng loạt [[Nhân quyền|hành động vi phạm nhân quyền]] và sử dụng các chiến thuật [[khủng bố]],<ref name="Non-governmental Terrorism">{{cite journal|last=Feldmann|first=Andreas E.|author2=Maiju Perälä|title=Reassessing the Causes of Nongovernmental Terrorism in Latin America|journal=Latin American Politics and Society|date=July 2004|volume=46|issue=2|pages=101–132|doi=10.1111/j.1548-2456.2004.tb00277.x}}</ref><ref name="Grandin & Joseph">{{citechú bookthích sách|author1=[[Greg Grandin]]|author2=Gilbert M. Joseph|url=https://books.google.com/books?id=YJ7ZBGy0wsIC|title=A Century of Revolution|year=2010|publisher=[[Duke University Press]]|location=[[Durham, North Carolina]]|page=89|isbn=0822392852}}</ref><ref name="Todd">{{citechú newsthích báo|title=Offensive by Nicaraguan "Freedom Fighters" May be Doomed as Arms, Aid Dry Up|work=Ottawa Citizen|url=https://news.google.com/newspapers?id=aK8yAAAAIBAJ&sjid=pe8FAAAAIBAJ&pg=1173,187657&dq=nicaragua&hl=en|date=ngày 26 Februarytháng 2 năm 1986|first=Dave|last=Todd|accessdate=ngày 27 Junetháng 6 năm 2011}}</ref><ref>{{citechú thích booksách|author1=Albert J. Jongman|author2=[[Alex P. Schmid]]|title=Political Terrorism: A New Guide To Actors, Authors, Concepts, Data Bases, Theories, And Literature|date=1988|publisher=[[Transaction Publishers]]|isbn=978-1-41280-469-1|pages=17–18|url=https://books.google.com/books&id=NgDks1hUjhMC|accessdate=ngày 27 Maytháng 5 năm 2015}}</ref><ref>{{citechú thích booksách|author1=[[Athan G. Theoharis]]|author2=[[Richard H. Immerman]]|title=The Central Intelligence Agency: Security Under Scrutiny|date=2006|publisher=[[Greenwood Publishing Group]]|isbn=0313332827|page=216|url=https://books.google.com/books?id=-nj4RLdHCU0C}}</ref> thực hiện hơn 1300 cuộc tấn công khủng bố.<ref>{{citechú bookthích sách|author1=[[Gary LaFree]]|author2=Laura Dugan|author3=Erin Miller|title=Putting Terrorism in Context: Lessons from the Global Terrorism Database|date=2014|publisher=[[Routledge]]|isbn=1134712413|page=56|url=https://books.google.com/books?id=_TGLBQAAQBAJ}}</ref> Các hoạt động trên được thực hiện một cách có hệ thống theo chiến lược của lực lượng này. Những người ủng hộ quân Contras đã cố gắng che giấu các hoạt động này, nhất là chính phủ Hoa Kỳ khi đó đã thực hiện một chiến dịch tuyên truyền nhằm để công chúng có thiện cảm hơn đối với lực lượng contras.<ref name="Fried 1997">{{citechú bookthích sách|last1=Fried|first1=Amy|title=Muffled Echoes: Oliver North and the Politics of Public Opinion|date=1997|publisher=Columbia University Press|isbn=9780231108201|pages=65–68|url=https://books.google.com/books?id=Wo0ghttOXLYC|accessdate=ngày 22 Apriltháng 4 năm 2015}}</ref>
 
Năm 1986, tại Mỹ xảy ra vụ [[bê bối Contragate]]. Scandal này có dính líu tới các quan chức cao cấp của Mỹ, họ bí mật bán vũ khí cho Iran trong khi quốc hội Mỹ đã có lệnh cấm xuất khẩu vũ khí cho Iran. Kế hoạch ấy được bịa ra dưới một câu chuyện khác nhằm bảo đảm việc phóng thích tù nhân Mỹ tại Iran, khiến dư luận Mỹ phẫn nộ. Tiền kiếm được trong đợt buôn bán sau đó đã được Mỹ bí mật dùng để tài trợ cho các nhóm phiến quân Contras ở Nicaragua. 11 thành viên của chính quyền Tổng thống Mỹ Reagan đã bị kết án sau một loạt các cáo buộc liên quan đến vụ bê bối này.