Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Wisława Szymborska”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Liên kết ngoài: them the loai using AWB
Dòng 30:
 
== Tiểu sử ==
Wisława Szymborska sinh tại Bnin (nay là [[Kórnik]], gần [[Poznan]]); năm 1929 gia đình chuyển đến [[Kraków|Krakow]]. Bà học xong tiểu học năm 1935 và trung học năm 1941, khi [[Ba Lan]] còn bị [[Đức]] chiếm đóng. Trong một thời gian ngắn Szymborska làm công nhân [[đường ray|đường sắt]]. TừGiai khoảngđoạn 1945-19471945–1947, bà học văn học Ba Lan và xã hội học tại [[Đại học Jagielloński]]. Năm 1945 bà khởi đầu sự nghiệp sáng tác với bài thơ ''Szukam słowa'' (Tôi tìm lời); năm 1952 in tập thơ đầu tiên ''Dlatego żyjemy'' (Vì lẽ này chúng ta đang sống) và được kết nạp vào [[Hội Nhà văn Ba Lan]].
 
Phong cách thơ của Szymborska thời kì này mang tính hiện thực truyền thống, viết về chiến tranh, quân đội, tổ quốc. Năm 1957, Szymborska xuất bản tập thơ thứ ba ''Wolanie do yeti'' (Lời kêu gọi đối với người tuyết) được dư luận quan tâm (trong nguyên tác sử dụng từ "yeti" có nghĩa là "người tuyết", ám chỉ thủ lĩnh của "xứ tuyết" láng giềng). Thời kì này bà thường viết lối thơ tự do, đặc trưng cho các nhà thơ Tây Âu đương đại, nhưng thơ Szymborska không trừu tượng mà cụ thể và dễ hiểu.
 
[[Tập tin:Szymanska Baranowska Matuszewski Szymborska 1996.jpg|nhỏ|phải|400px|Wisława Szymborska và các thành viên [[Hội Văn bút Ba Lan]]]]
Trong những năm 1953-19811953–1981, bà là biên tập viên thơ và là người viết xã luận trên tuần báo ''Życie Literackie'' (Đời sống văn học), các tiểu luận của bà về sau được tập hợp xuất bản dưới dạng sách tái bản nhiều lần. Trong khoảng 1952-19961952–1996, bà đã xuất bản 16 tập thơ. Ngoài ra, bà còn dịch thơ [[tiếng Pháp]], [[tiếng Nga]] ra [[tiếng Ba Lan]].
 
Szymborska được tặng nhiều giải thưởng văn học. Năm 1954 bà được tặng giải thưởng của thành phố Krakow; năm 1963 bà đoạt giải Văn học của Bộ trưởng Văn hóa Nghệ thuật Ba Lan; năm 1991 [[giải Goethe]] của [[Đức]] và năm 1995 [[giải thưởng Herder]] của [[Áo]]. Bà được trao bằng Tiến sĩ danh dự của Đại học [[Adam Mickiewicz]] tại Poznan (1995) và giải thưởng Hội Văn bút Ba Lan (1996). Năm 1996, Szymborska được trao [[giải Nobel]] cho "những tác phẩm thơ tái hiện chân thực một thế giới trong đó [[thiện|cái thiện]] và [[ác|cái ác]] đan xen, giành giật nhau chỗ đứng cả lẫn trong tư duy và hành động của con người, thể hiện tấm lòng một công dân, một nghệ sĩ có nhân cách lớn và đầy trách nhiệm trước những thực trạng các giá trị tinh thần bị đảo lộn, trước nguy cơ suy đồi đạo đức trong cuộc sống hiện đại". Thơ của Wislawa Szymborska được dịch ra gần 40 thứ tiếng, trong đó có [[tiếng Việt]].
Dòng 258:
==Tham khảo==
{{tham khảo}}
*[[Nhà thơ]] [[giải Nobel]] [[1900]] - [[2006]]. Nhà xuất bản [[Lao động]], [[Hà Nội]], [[2006]].
 
== Liên kết ngoài ==