Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhóm đơn bội”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 2:
 
Ký hiệu Haplogroup bắt đầu bằng chữ cái, và tiếp là phần chi tiết bao gồm số và chữ kết hợp bổ sung, ví dụ R1b1. [[Nhiễm sắc thể Y]] và haplogroup [[ADN ty thể]] (mtDNA) có chỉ định haplogroup khác nhau. Haplogroup liên quan đến nguồn gốc tổ tiên sâu xa, có niên đại hàng ngàn năm.<ref>The International Society of Genetic Genealogy see Haplogroup definition in DNA--NEWBIE GLOSSARY [http://www.isogg.org]</ref>
[[Tập tin:Mt-Haplogruppen-Wanderung.png|thumb|470px|Đường phát tán loài người theo các nhóm đơn bội mtDNAADN ty thể (dòng mẹ) theo Kalevi Wiik (2008)<ref name="Wiik">[http://www.jogg.info/41/Wiik1.pdf Kalevi Wiik, (2008). ''Where Did European Men Come From?''] Journal of Genetic Genealogy, 4, p. 35-85</ref>. Phần màu trắng là đất liền vào thời kỳ băng hà 10 Kanghìn năm về trước, nay bị chìm dưới biển.]]
[[Tập tin:Y-Haplogruppen-Wanderung.png|thumb|470px|Đường phát tán loài người theo các [[nhóm đơn bội Y-ADN]] (dòng bốcha)<ref name="Wiik"/>.]]
Trong di truyền của con người, các '''haplogroup''' thường nghiên cứu nhiều nhất là haplogroup [[nhiễm sắc thể Y]] ([[Nhóm đơn bội Y-ADN|Y-ADN]]) và haplogroup [[ADN ty thể]] (mtDNA), cả hai đều được sử dụng để xác định các quần thể di truyền. [[Nhóm đơn bội Y-ADN|Y-ADN]] được truyền chỉ theo dòng phụ hệ, từ cha sang con trai, trong khi [[mtDNA]] được truyền chỉ theo dòng mẫu hệ, từ mẹ sang con của cả hai giới. Do không tái kết hợp, [[Nhóm đơn bội Y-ADN|Y-ADN]] và [[mtDNA]] chỉ thay đổi bởi đột biến ở mỗi thế hệ, không có hòa lộn với nhau giữa các vật liệu di truyền của cha mẹ. Nhờ đó có thể dựng được quá trình phát tán của loài người (hoặc của động vật khác cũng có gen giới tính). Nó hiện ra đó là sự phát tán từ châu Phi và là bằng chứng khẳng định thuyết một nguồn gốc [[Các dòng di cư sớm thời tiền sử|''Out-of-Africa'']] của loài người.<ref name="Wiik"/>
 
== Sự hình thành tạonhóm đơn haplogroupbội ==
''[[Ty thể]]'' là [[bào quan]] nhỏ nằm trong [[tế bào chất]] của [[tế bào nhân chuẩn]], chẳng hạn như [[tế bào]] của con người. Mục đích chính của nó là cung cấp năng lượng cho [[tế bào]]. [[Ty thể]] được cho là thể rút gọn từ các [[vi khuẩn]] cộng sinh từng sống tự do. Một dấu hiệu cho thấy các [[ty thể]] "từng sống tự do" là nó chứa [[ADN]] vòng, gọi là [[ADN ty thể]], có cấu trúc tương tự như [[vi khuẩn]] nhiều hơn so với các [[sinh vật nhân chuẩn]] (xem thêm ''[[thuyết nội cộng sinh]]''). Đa số các [[ADN]] của con người chứa trong các [[nhiễm sắc thể]] trong [[nhân tế bào]], nhưng [[mtDNA]] là một ngoại lệ.
 
Mỗi cá nhân sinh ra thừa kế [[tế bào chất]] và các [[bào quan]] độc quyền từ [[tế bào]] trứng của mẹ, trong đó có [[mtDNADNA ty thể|ADN ty thể]]. [[Tinh trùng]] chỉ góp vào [[ADN]] nhiễm sắc thể (bỏ lại các bào quan,... bên ngoài hợp tử). Khi một đột biến phát sinh trong một phân tử [[mtDNADNA ty thể|ADN ty thể]], nó sẽ được truyền theo trực hệ dòng nữ. Đột biến là sự sao chép sai lầm trong trình tự [[ADN]], và một sai lầm đơn được gọi là [[đa hình nucleotide đơn]] (SNP).
 
[[Nhiễm sắc thể Y]] của người là [[nhiễm sắc thể]] giới tính nam. Gần như tất cả mọi người có mang [[nhiễm sắc thể Y]] sẽ có hình thái nam{{efn|Trừ các trường hợp do bệnh lý tiềm ẩn, hoặc do tác động của môi trường tương tự như việc thiến các động vật nuôi bằng hóa chất}}. Mặc dù [[nhiễm sắc thể Y]] nằm trong [[nhân tế bào]] và kết hợp với [[nhiễm sắc thể X]], nhưng nó chỉ tổ hợp với [[nhiễm sắc thể X]] ở hai đầu của [[nhiễm sắc thể Y]], phần còn lại và là khá lớn của [[nhiễm sắc thể Y]] là ''không tái tổ hợp''. Ở người vùng không tái tổ hợp là 95%. Vì vậy, các [[nhiễm sắc thể Y]] và bất kỳ đột biến phát sinh trong nó được truyền từ cha sang con trai trong đường truyền trực hệ nam. Điều này có nghĩa là các [[nhiễm sắc thể Y]] và [[mtDNA|ADN ty thể]] chia sẻ các đặc tính cụ thể của từng dòng trong quần thể.
 
Các [[nhiễm sắc thể]] khác, tức nhiễm sắc thể thường và [[nhiễm sắc thể X]] ở phụ nữ, chia sẻ dữ liệu di truyền của nó qua hiện tượng giao chéo để dẫn đến tái tổ hợp, trong quá trình ''[[Giảm phân|phân bào giảm nhiễm]]'' (meiosis) phục vụ mục đích sinh sản hữu tính. Điều này có nghĩa là các vật liệu di truyền từ các [[nhiễm sắc thể]] được trộn lẫn qua từng thế hệ, và vì vậy bất kỳ đột biến mới nếu có được truyền lại một cách ngẫu nhiên từ cha mẹ sang hậu thế.
 
Điều đặc biệt mà cả hai [[nhiễm sắc thể Y]] và [[mtDNA|ADN ty thể]] thể hiện là [[đột biến]] có thể tích luỹ ở một phân đoạn nhất định của cả hai phân tử, và chúng có thể vẫn cố định ở vị trí trên [[ADN]]. Từ đó có thể xác định được trình tự lịch sử của những [[đột biến]] này. Ví dụ, nếu một tập hợp của mười [[nhiễm sắc thể Y]] (lấy từ mười đàn ông khác nhau) có chứa một đột biến, A, nhưng chỉ có năm trong các nhiễm sắc thể chứa một đột biến thứ hai, B, thì tức là đột biến B xảy ra sau đột biến A.
 
Trong nghiên cứu di truyền, [[mtDNADNA ty thể|ADN ty thể]] và [[Nhóm đơn bội Y-ADN|Y-ADN]] được nhóm lại thành các dòng và nhóm đơn bội, và nó thường được trình bày như là một sơ đồ dạng cây.
 
== Chỉ dẫn ==