Đỗ Chu là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng thuộc thế hệ các tác giả trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ông đã được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật năm 2012.

Đỗ Chu
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
5 tháng 2, 1944
Nơi sinh
Bắc Giang
Giới tínhnam
Quốc tịch Việt Nam
Giải thưởng
Giải thưởng Hồ Chí Minh 2012
Văn học nghệ thuật

Tiểu sử sửa

Nhà văn Đỗ Chu tên thật là Chu Bá Bình, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1944 tại xã Quảng Minh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Ông học cấp III trường Hàn Thuyên (Bắc Ninh) đầu những năm 1960. Lúc đó Đỗ Chu đã có bài Ao làng in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Ông đã học qua trường bồi dưỡng viết văn Hội Nhà văn Việt Nam khóa II (1965). Vào năm 1966, Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân tổ chức trại viết các gương điển hình trong chiến đấu chống Mỹ. Đỗ Chu được giao phụ trách trại, viết về liệt sĩ Phan Đăng Cát rồi anh viết truyện ngắn Phù sa, làm cuốn sách cùng tên. Trước đó anh có 3 truyện đã in chung cùng hai tên tác giả khác: Trúc Hà, Văn Ngữ trong tập Hương cỏ mật.[1]

Ông từng là lính cao xạ thuộc quân chủng Phòng không - Không quân những năm chống Mỹ. Viết truyện ngắn từ khi còn là học sinh trường phổ thông trung học Hàn Thuyên (Bắc Ninh). Hai mươi tuổi đã được nhiều người biết đến với các truyện ngắn nổi tiếng đương thời như: Thung lũng cò, Hương cỏ mật, Chiến sĩ quân bưu... Năm 1975 ông chuyển ngành sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam. Giống các nhà văn Chu Lai, Nguyễn Văn Linh...ông đã sống và viết nhiều trong quân ngũ.. Đỗ Chu từng là Trưởng ban Nhà văn Trẻ khóa VI.

Ông là nhà văn thành công trong thể loại truyện ngắnbút ký văn học với những tác phẩm đã đi vào lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Phần lớn tác phẩm của ông đều lấy đề tài từ các làng quê, đạo lý của con người và phong tục tập quán dân tộc...Về mảng tuỳ bút ở Việt Nam, tài năng của ông được đánh giá là chỉ sau Nguyễn Tuân.[2]

Tác phẩm chính sửa

  • Hương cỏ mật (tập truyện ngắn, 1963)
  • Phù sa (tập truyện ngắn, 1966)
  • Tháng Hai (tập truyện ngắn, 1969)
  • Trung du (truyện ngắn, 1967)
  • Gió qua thung lũng (truyện ngắn, 1971)
  • Vòm trời quen thuộc (truyện ngắn, 1969)
  • Đám cháy trước mặt (truyện ngắn, 1970)
  • Những chân trời của các anh (tùy bút)
  • Tắm cho ông (truyện ngắn, 1989)
  • Một loài chim trên sóng (truyện ngắn, 2001)
  • Đỗ Chu truyện ngắn tuyển tập (2003)
  • Tản mạn trước đèn (2004)
  • Lão mai (truyện ngắn)

Giải thưởng sửa

Quan điểm sửa

Những lời khen của các bậc đi trước là nguồn động viên rất quý, nhưng bản thân chuyện đó trước sau vẫn chỉ là động viên mà thôi. Các nhà văn, người cầm bút trở thành vững chãi đều phải qua một giai đoạn dài từng trải, vừa học hỏi vừa sáng tạo một cách công phu, ai tính chuyện đi tắt, mưu mẹo vặt, toan bỏ qua chuyện đó thì trước sau gì đều cũng sẽ lụi. Cụ Đỗ Phủ đời Đường từng nói: "Vinh hoa địch huân nghiệp/ Tuế mộ hữu nghiêm sương" có nghĩa rằng, anh hưởng cái vinh hoa quá đáng so với những công lao đóng góp thì rồi ra về già ắt sẽ phải chịu nhiều sương giá.[2]

"Viết nhiều là quý nhưng phải hay. Viết nhiều mà không hay thì thà viết ít, thậm chí đừng viết nữa. Dấu hiệu của tài năng còn là ở chỗ tự biết mình đến lúc nào không hay thì thà viết ít, thậm chí đừng viết nữa. Biết điều thì xin vào ngồi ở một tòa soạn, một nhà xuất bản nào đó, kiếm lấy một cái ghế để yên thân"

Đỗ Chu nói: Làm báo là phải cập nhật, viết văn thì phải dài dài… phần lớn người viết văn bây giờ phải viết báo cho nên gì thì gì nhớ là khi ra sách phải có văn chương, không thì vứt…".

"Phải mất hàng năm, không thể không đọc một nhà văn như ông (Tô Hoài) này. Đấy là nhà chép sử biên niên nước nhà, kể từ tiền khởi nghĩa, có sức vóc "cử đỉnh" trong văn học Việt Nam thế kỷ hai mươi. Người ta hay nhắc đến những trang viết miền núi của Tô Hoài, tất nhiên là hay, nhưng thực ra phần chính yếu của ông là viết về Hà Nội trước và sau Cách mạng Tháng Tám. Giữa các cụ xuất chúng ông già này cứ lầm rầm đi, lầm rầm làm việc nhưng sẽ là người về sau cùng, trên vai là một gánh sách có ý nghĩa tập đại thành...Nhiều anh thích ầm ĩ quá, trong khi sự tự vượt mình chỉ có thể làm được trong im lặng sống và sáng tạo".

"Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Vàng Anh, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Ngọc Tư… và rất nhiều người nữa đều đã có những đóng góp đáng kể, tôi hy vọng sự chững lại của họ mấy năm gần đây chỉ là một sự chuẩn bị kỹ lưỡng hơn để có những bước vạm vỡ trong thời gian tới". Chẳng qua đời mỗi chúng ta cũng giống như con chim gì đang nhảy nhót chấp chới trên ngọn sóng. Chỉ có ai lênh đênh ngoài khơi thì mới gặp loài chim ấy. Chẳng hiểu chúng đậu vào đâu mà sống nổi, và nhờ đâu chúng vẫn cất tiếng hót giữa trùng trùng sóng gió. Kiếp người tưởng vậy mà nào có khác nhau là bao. Tôi vẫn thấy có tiếng hát của em, tiếng gọi của chị trong mỗi ngày sống của mình. (Một loài chim trên sóng).[1]

Đánh giá sửa

"Đỗ Chu giống như cây quế trong rừng, ai dám bảo cây quế không quý" (Đỗ Chu như cây quế, thơm từ vỏ thơm vào) (Nhận xét của Nguyễn Minh Châu về đặc trưng của văn Đỗ Chu thời trẻ) [1][2]

Xem thêm sửa

Tham khảo sửa