Bắc Giang

Tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ ở Việt Nam

Bắc Giang là một tỉnh trung du thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Bắc Giang chiếm phần lớn diện tích của vùng Kinh Bắc xưa và có nền văn hoá phong phú, đặc trưng của Kinh Bắc, là một trong những cái nôi của Dân ca Quan họ với 23 làng quan họ cổ được UNESCO công nhận. Tỉnh lỵ là thành phố Bắc Giang, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 50 km.

Bắc Giang
Tỉnh
Tỉnh Bắc Giang
Biểu trưng
Chùa Vĩnh Nghiêm ở huyện Yên Dũng

Biệt danhXứ vải thiều
Hành chính
Quốc gia Việt Nam
Vùng
Tỉnh lỵThành phố Bắc Giang
Trụ sở UBND257, Lê Lợi, thành phố Bắc Giang
Phân chia hành chính1 thành phố, 9 huyện
Tổ chức lãnh đạo
Chủ tịch UBNDLê Ánh Dương
Hội đồng nhân dân75 đại biểu
Chủ tịch HĐNDLê Thị Thu Hồng
Chủ tịch UBMTTQTrần Công Thắng
Chánh án TANDThân Văn Quang
Viện trưởng VKSNDNguyễn Xuân Hùng
Bí thư Tỉnh ủyDương Văn Thái
Địa lý
Tọa độ: 21°16′29″B 106°12′06″Đ / 21,274838°B 106,201583°Đ / 21.274838; 106.201583
MapBản đồ tỉnh Bắc Giang
Vị trí tỉnh Bắc Giang trên bản đồ Việt Nam
Vị trí tỉnh Bắc Giang trên bản đồ Việt Nam
Vị trí tỉnh Bắc Giang trên bản đồ Việt Nam
Diện tích3.895,89 km²[1][2]
Dân số (2021)
Tổng cộng1.875.200 người[3]
Thành thị341.700 người (18,22%)[4]
Nông thôn1.533.600 người (81,78%)[5]
Mật độ481 người/km²[6]
Dân tộcKinh, Nùng, Sán Chay, Hoa, Tày...
Kinh tế (2022)
GRDP155.900 tỷ đồng ( 6,7 tỷ USD )
GRDP đầu người3.400 USD
Khác
Mã địa lýVN-54
Mã hành chính24[7]
Mã bưu chính23xxxx
Mã điện thoại204
Biển số xe98
Websitebacgiang.gov.vn

Năm 2022, dân số của Bắc Giang ước đạt 1,891 triệu người, là tỉnh đông dân nhất và có quy mô kinh tế đứng đầu vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Bắc Giang là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 11 về số dân, xếp thứ 13/63 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP)[8] ước tính 2022 GRDP đạt gần 155.900 tỉ Đồng (GRDP bình quân đầu người đạt 3.400 USD). Năm 2022 Bắc Giang có tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 19,3 % xếp thứ 2 toàn quốc[9]

Địa lý Sửa đổi

Bắc Giang là một tỉnh thuộc vùng đông bắc Bắc Bộ, có vị trí địa lý:

Các điểm cực của tỉnh Bắc Giang: Sửa đổi

  • Điểm cực bắc tại: vùng núi Gốc Bòng, xã Đồng Tiến, huyện Yên Thế.
  • Điểm cực đông tại: khu bảo tồn thiên nhiên Khe Rỗ, xã An Lạc, huyện Sơn Động.
  • Điểm cực nam tại: thôn Nam Sơn, xã Đồng Phúc, huyện Yên Dũng.
  • Điểm cực tây tại: thôn Đa Hội, xã Hợp Thịnh, huyện Hiệp Hòa.

Bắc Giang có diện tích tự nhiên 3.825,75 km², chiếm 1,2% diện tích tự nhiên của Việt Nam. Theo tài liệu năm 2000, trong tổng diện tích tự nhiên của Bắc Giang, đất nông nghiệp chiếm 32,4%; đất lâm nghiệp có rừng chiếm 28,9%; còn lại là đồi núi, sông suối chưa sử dụng và các loại đất khác.

Bắc Giang có địa hình trung du và là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi phía bắc với châu thổ sông Hồng ở phía nam. Tuy phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh là núi đồi nhưng nhìn chung địa hình không bị chia cắt nhiều. Phía bắc và phía đông nam của tỉnh là vùng rừng núi cao từ 300m - 900 m. Vùng đồi núi thấp và đồng bằng trung du nằm kẹp giữa hai dãy núi hình cánh cung là cánh cung Đông Triều phía ở phía đông nam và và cánh cung Bắc Sơn ở phía tây - bắc. Cánh cung Đông Triều với dãy núi Yên Tử, cao trung bình 300–900 m so với mặt biển, trong đó đỉnh cao nhất là 1.068 m. Tại vùng núi phía đông bắc tỉnh, giáp với Quảng Ninh có khu rừng nguyên sinh Khe Rỗ rộng 7153 ha với hệ động vật và thực vật phong phú, bao gồm 236 loài cây thân gỗ, 255 loài cây dược liệu, 37 loài thú, 73 loài chim và 18 loài bò sát.

Trên địa bàn Bắc Giang có 374 km sông suối, trong đó ba sông lớn là sông Lục Nam, sông Thươngsông Cầu. Sông Lục Nam chảy qua vùng núi đá vôi nên quanh năm nước trong xanh. Sông Thương bắt nguồn từ hai vùng có địa hình và địa chất khác nhau nên nước chảy đôi dòng: bên đục, bên trong.

Ngoài sông suối, Bắc Giang còn có nhiều hồ, đầm, trong đó có hồ Cấm Sơn và Khuôn Thần. Hồ Cấm Sơn nằm ở khu vực giáp tỉnh Lạng Sơn, dài 30 km, nơi rộng nhất 7 km và chỗ hẹp nhất 200m. Hồ Cấm Sơn có diện tích mặt nước 2.600 ha, vào mùa mưa có thể lên tới 3.000 ha. Hồ Khuôn Thần có diện tích mặt nước 240 ha và lòng hồ có 5 đồi đảo được phủ kín bởi rừng thông 20 tuổi. Người ta có thể dạo chơi trên hồ Khuôn Thần bằng thuyền đạp chân hoặc thuyền gắn máy, vừa cùng người Sán Chỉ, Cao Lan, Nùng bản địa hát soong hao, vừa thưởng thức những sản phẩm độc đáo của địa phương như hạt dẻ, mật ong và rượu tắc kè.

Dân cư Sửa đổi

Theo điều tra dân số tính đến 0h ngày 01 tháng 4 năm 2019[10], dân số Bắc Giang có 1.803.950 người, với mật độ dân số 463 người/km², gấp 1,5 lần mật độ dân số bình quân của cả nước. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 là 23,9%.

Tỉnh Bắc Giang là tỉnh đông dân thứ 12 cả nước và đông dân nhất vùng trung du và miền núi phía Bắc với 1,80 triệu dân.

Trên địa bàn Bắc Giang có 6 dân tộc cùng sinh sống, trong đó đông nhất là người Kinh, chiếm 88,1% dân số toàn tỉnh, tiếp đến là người Nùng chiếm 4,5%; người Tày 2,6%; người Sán Chayngười Sán Dìu, mỗi dân tộc 1,6%; người Hoa 1,2%; người Dao 0,5%. Tỷ lệ nam giới chiếm khoảng 49,95% dân số, nữ giới khoảng 50,05% dân số. Số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 62,15% dân số, trong đó lao động được đào tạo nghề chiếm 28%; số hộ nghèo chiếm 7.2%.

Hiện nay, Bắc Giang có hai tôn giáo chính là Công giáo và Phật giáo, trong đó Công giáo có 27.000 giáo dân, chiếm 1,7% dân số của tỉnh, cư trú ở 68 xã, phường, thị trấn; Phật giáo có 176.000 tín đồ, chiếm 11% dân số toàn tỉnh. Chức sắc Phật giáo ở tỉnh có 112 tăng ni trụ trì ở 105 ngôi chùa; trên địa bàn tỉnh có 2 trung tâm Phật giáo là chùa Vĩnh Nghiêm, huyện Yên Dũng thuộc thiền phái Trúc lâm và Chùa Bổ Đà, huyện Việt Yên thuộc thiền phái Lâm tế. Ngoài hai tôn giáo chính là Công giáo và Phật giáo, hiện nay toàn tỉnh Bắc Giang có 1.600 ngôi đình, đền, nghè, miếu thờ thần linh, thành hoàng, thánh mẫu... thuộc hệ thống tín ngưỡng dân gian, mỗi năm có hơn 500 lễ hội diễn ra thường niên. Năm qua, các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận pháp nhân trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã tăng cường hoạt động, củng cố đức tin, bồi dưỡng tập huấn chức sắc, xây sửa mới cơ sở thờ tự, nội dung hoạt động đã bám sát vào giáo luật, hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo và quy định của pháp luật; đồng bào theo các tôn giáo trên địa bàn tỉnh đã tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động...[11]

Lịch sử Sửa đổi

Thời vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, Bắc Giang thuộc bộ Võ Ninh.

Đời Lý - Trần gọi là lộ Bắc Giang.

Đời , đây là phủ Bắc Hà, năm 1822 đổi là phủ Thiên Phúc, đến đời Tự Đức là phủ Đa Phúc.

 
Bản đồ tỉnh Lục Nam năm 1891

Từ ngày 5 tháng 11 năm 1889 đến ngày 9 tháng 9 năm 1891 đã tồn tại tỉnh Lục Nam. Tỉnh Lục Nam gồm các huyện Bảo Lộc, Phượng Nhỡn, Lục Nam, Hữu Lũng (tách từ phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh, ở bên tả ngạn sông Thương) và huyện Yên Bái (tách từ tỉnh Lạng Sơn). Năm 1891 sau khi trả hai huyện Bảo Lộc và Phượng Nhỡn cho tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Lục Nam bị xóa bỏ để nhập vào Đạo Quan binh I.

 
Bản đồ tỉnh Bắc Giang năm 1900

Tỉnh Bắc Giang được thành lập ngày 10 tháng 10 năm 1895, tách từ tỉnh Bắc Ninh, bao gồm phủ Lạng Giang, phủ Đa Phúc và các huyện Kim Anh, Yên Dũng, Phượng Nhỡn, Việt Yên, Hiệp Hòa, Yên Thế và một số tổng nằm ở phía nam sông Lục Nam. Tỉnh lỵ là Phủ Lạng Thương (nay là thành phố Bắc Giang), công sứ đầu tiên là E. Quennec (1895 - 1910). Năm 1896, phủ Đa Phúc và huyện Kim Anh được trả lại cho tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1950, tỉnh Bắc Giang thuộc Liên khu Việt Bắc (1949-1956) và gồm 7 huyện: Hiệp Hoà, Lục Ngạn, Yên Thế, Lạng Giang, Việt Yên, Yên Dũng, Hữu Lũng.

Ngày 22 tháng 2 năm 1955, huyện Sơn Động từ tỉnh Quảng Yên trả về tỉnh Bắc Giang.

Ngày 1 tháng 7 năm 1956, khi thành lập Khu tự trị Việt Bắc, huyện Hữu Lũng sáp nhập vào tỉnh Lạng Sơn thuộc Khu tự trị Việt Bắc. Đồng thời, huyện Phú Bình thuộc tỉnh Thái Nguyên được nhập vào tỉnh Bắc Giang, nhưng đến ngày 15 tháng 6 năm 1957 lại trả về tỉnh Thái Nguyên.

Ngày 21 tháng 1 năm 1957, thành lập huyện Lục Nam từ một số xã của các huyện Yên Dũng, Lạng Giang, Lục Ngạn, Sơn Động và 3 xã của huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.

Ngày 6 tháng 11 năm 1957, chia huyện Yên Thế thành 2 huyện: Yên Thế và Tân Yên.

Năm 1959, đổi tên thị xã Phủ Lạng Thương thành thị xã Bắc Giang.

Ngày 27 tháng 10 năm 1962, Bắc Giang nhập với Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc và đến ngày 1 tháng 1 năm 1997 lại tách ra như cũ. Khi tách ra, tỉnh Bắc Giang có tỉnh lị là thị xã Bắc Giang và 9 huyện: Hiệp Hòa, Lạng Giang, Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động, Tân Yên, Việt Yên, Yên Dũng, Yên Thế.

Ngày 03 tháng 5 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 130-HĐBT [12] về điều chỉnh địa giới các huyện Tiên Sơn, Quế Võ, Việt Yên, Lạng Giang và hai thị xã Bắc Ninh, Bắc Giang thuộc tỉnh Hà Bắc.

Ngày 7 tháng 6 năm 2005, chuyển thị xã Bắc Giang thành thành phố Bắc Giang.[13]

Tỉnh Bắc Giang có 1 thành phố và 9 huyện như ngày nay.

Văn hóa Sửa đổi

 
Nhà thờ Ngọc Liễn ở xã Châu Minh
huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang
 
Thị trấn Thắng, huyện lỵ Hiệp Hòa

Văn hóa Bắc Giang có các điểm đặc trưng sau:

  • Tính chất đan xen đa văn hóa. Đan xen không phải hòa đồng mà tất cả cùng tồn tại tạo nên sự phong phú, đa dạng của văn hóa Bắc Giang.
  • Tính chất tụ hội văn hóa người Việt. Trong lịch sử lâu dài của đất nước người dân từ nhiều nơi như Thanh Hóa, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, Hưng Yên... đã lên đây sinh sống. Họ mang theo tập tục của mình và có những biến đổi theo người dân bản xứ trên đất Bắc Giang và ngược lại người dân Bắc Giang ở trước đó cũng bị những tác động của cư dân mới đến.
  • Con người Bắc Giang vốn là những cư dân đồng cam cộng khổ, cưu mang nhau vượt qua thiên tai địch họa, khai phá rừng hoang lập làng, lập bản. Tính chất hào hùng còn dễ nhận thấy hơn qua các cuộc bảo vệ đất nước của dòng họ Giáp, họ Thân và đặc biệt hơn là cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
  • Bắc Giang là sự giao thoa giữa hai miền văn hóa Việt cổ và văn hóa Tày Nùng. Những người dân tộc Thái, dân tộc Dao… vẫn có nét riêng trong sinh hoạt nhưng họ học tiếng Kinh, mặc quần áo người Kinh.
  • Văn hóa Bắc Giang là tính chất đoàn kết, sáng tạo. Từ vùng rừng thiêng nước độc, cộng đồng dân cư Bắc Giang sinh sống đã tạo nên những vẻ đẹp riêng có cả về văn hóa vật thể và phi vật thể. Bắc Giang có hơn 500 lễ hội lớn nhỏ.

Người dân Bắc Giang tự hào là cái nôi của quan họ cổ với 23 làng ven sông Cầu, tồn tại như một sự kết duyên song song với quan họ ở Bắc Ninh. Đất quan họ Bắc Giang còn là nơi có tục kết chạ từ lâu đời đến nay vẫn tồn tại trong cuộc sống cộng đồng, có đóng góp tích cực làm đẹp thêm đời sống xã hội.

Bắc Giang có chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng) - cái nôi đào tạo Phật pháp thiền phái Trúc Lâm; chùa Bổ Đà (Việt Yên) phản ánh tính chất cổ kính gần với phật giáo Ấn Độ, đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hòa) được dựng vào cuối thế kỷ XVI từng được mệnh danh là "Đệ nhất Kinh Bắc". Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trên địa bàn Bắc Giang cách đây khoảng hai vạn năm có người thời đại đồ đá khai phá, sinh sống ở đây. Điều đó được thể hiện qua các di chỉ Bố Hạ (Yên Thế), Chũ, Cầu Cát (Lục Ngạn), Khe Táu, An Châu (Sơn Động). Thời gian tiếp theo các nhà khảo cổ cũng tìm thấy con người thời đại đồ đá mới sinh sống trên vùng đất này qua di chỉ Mai Sưu (Lục Nam), thời đại đồ đồng qua di chỉ Đông Lâm (Hiệp Hòa).

Ở Bắc Giang có lễ hội vật cầu nước ở làng Vân (Việt Yên), lế hội đình Cầu Vồng (Tân Yên, lễ hội làng Thổ Hà (Việt Yên), lễ hội Yên Thế (Yên Thế) và lễ hội chùa Tiên Lục (Lạng Giang) được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

Hành chính Sửa đổi

Tỉnh Bắc Giang có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 9 huyện với 209 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 10 phường, 17 thị trấn và 182 xã.[14]

Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Bắc Giang
Tên Dân số (người)2019 Hành chính
Thành phố (1)
Bắc Giang 174.229 10 phường, 6 xã
Huyện (9)
Hiệp Hòa 247.460 2 thị trấn, 23 xã
Lạng Giang 216.996 2 thị trấn, 19 xã
Lục Nam 226.540 2 thị trấn, 23 xã
Tên Dân số (người)2019 Hành chính
Lục Ngạn 226.194 1 thị trấn, 28 xã
Sơn Động 76.106 2 thị trấn, 15 xã
Tân Yên 177.265 2 thị trấn, 20 xã
Việt Yên 205.900 2 thị trấn, 15 xã
Yên Dũng 152.125 2 thị trấn, 16 xã
Yên Thế 101.135 2 thị trấn, 17 xã

Kinh tế Sửa đổi

Nằm trên tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng, liền kề vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, Bắc Giang rất thuận lợi trong phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực.

Bắc Giang đã quy hoạch và triển khai 6 khu công nghiệp diện tích 1462 ha, 38 cụm công nghiệp với tổng diện tích hơn 1208 ha, trong đó có 5 khu công nghiệp đang thu hút các nhà đầu tư thứ cấp. Mới đây vào ngày 23/2/2021 chính phủ cho phép thành lập thêm 3 KCN ở Yên Dũng, Lục Nam,Lạng Giang và mở rộng 3 KCN Quang Châu, Hòa Phú, Việt Hàn với tổng diện tích hơn 1.100 ha [15]

Các khu công nghiệp hầu hết tập trung ở các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa...Được quy hoạch liền kề nhau, nằm dọc theo đường quốc lộ 1A Hà Nội - Lạng Sơn, gần với các đô thị lớn, thuận lợi cả về đường bộ, đường sông, đường sắt và đường hàng không và các cảng sông, cảng biển. Cách thủ đô Hà Nội khoảng 40–50 km, Sân bay quốc tế Nội Bài 50 km; Cảng Hải Phòng khoảng 110 km và cách cửa khẩu Hữu Nghị Quan 120 km, có hệ thống hạ tầng tương đối hoàn chỉnh; thuận lợi cả về hệ thống cung cấp điện, nước, bưu chính viễn thông.

Các khu công nghiệp đó là:

3 KHU CÔNG NGHIỆP MỚI

Ngoài các khu công nghiệp trên, hiện nay tỉnh Bắc Giang dự kiến quy hoạch một số khu, cụm công nghiệp khác, tập trung ở các huyện Yên Dũng, Việt Yên, Hiệp HoàLạng Giang... Mục tiêu đến 2030 tỉnh có 27 KCN điện tích khoảng 9000 ha và 69 CCN diện tích gần 3000 ha.[16]

Bắc Giang đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp; quan tâm đào tạo[17], nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp và đặc biệt chú trọng cải cách thủ tục hành chính theo hướng đảm bảo công khai, minh bạch với cơ chế "một cửa liên thông", nhà đầu tư chỉ cần đến một địa chỉ là Ban quản lý các Khu công nghiệp hoặc Sở Kế hoạch và Đầu tư là được cấp giấy chứng nhận đầu tư, mã số thuế và con dấu.[15] Tính đến tháng 1/2021 Bắc Giang đã thu hút được 1304 dự án đầu tư trong nước với số vốn đăng ký 91.505 tỷ đồng và 472 dự án FDI với số vốn đăng ký hơn 7,7 tỷ USD. Bắc Giang đang trở thành một trong những trung tâm công nghiệp lớn của miền Bắc và cả nước.

Giao thông Sửa đổi

Kinh tế - xã hội Sửa đổi

NĂM 2020

  • Tốc độ phát triển kinh tế 13,02%.
  • Giá trị sản xuất công nghiệp 272.435 tỷ đồng.
  • GRDP bình quân 2900 USD/người.
  • Tỉ lệ dân đô thị 22,18%.
  • 127/184 xã chiếm tỷ lệ 69% và 3 huyện đạt chuẩn nông thôn mới.
  • Thu ngân sách nhà nước 12376,8 tỉ đồng.
  • Kim ngạch xuất nhập khẩu 21,8 tỉ USD.
  • Thu hút FDI đứng thứ 9 toàn quốc. Tổng thu hút đầu tư quy đổi 1,40 tỷ USD.
  • Tỉ lệ hộ nghèo còn 3,14 %.

NĂM 2021

  • Tốc độ tăng trưởng GRDP 7,82%
  • GRDP bình quân đầu người 2.950 USD
  • Xuất nhập khẩu 31,14 tỷ USD
  • Thu hút vốn đầu tư quy đổi gần 1,6 tỷ USD (trong đó FDI trên 1,3 tỷ USD )
  • Thu ngân sách nhà nước gần 22.000 tỷ đồng
  • Giá trị SXCN gần 310.000 tỷ đồng
  • Tỷ lệ dân đô thị trên 23%.
  • 6 đơn vị cấp huyện và 138 xã hoàn thành xây dựng nông thôn mới.

MỤC TIÊU 2021-2025

  • Tốc độ tăng trưởng kinh tế 14%-15%.
  • GRDP bình quân đầu người trên 5500 USD.
  • Huy động vốn đầu tư toàn xã hội trên 470.000 tỷ đồng.
  • Khách du lịch 3 triệu lượt người (2025).
  • Tỷ lệ dân số đô thị 32,4% (2025).
  • Tỷ lệ xã nông thôn mới 85% và 7 huyện nông thôn mới trong đó 2 huyện nông thôn mới nâng cao
  • Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn 2016- 2020 còn 1%...

Danh nhân Sửa đổi

Du lịch Sửa đổi

 
Suối nước màu vàng trên dãy núi Phật Sơn, một phần của dãy Yên Tử thuộc xã Lục Sơn, Lục Nam, Bắc Giang

Văn hóa Sửa đổi

Ẩm thực Sửa đổi

  • Rượu làng Vân: Rượu làng Vân là một loại đặc sản nổi tiếng của làng Vân, được làm từ gạo nếp và men gia truyền. Nó có hương vị đặc biệt và được sử dụng trong các dịp lễ hội và làm quà biếu[18].
  • Vải thiều Lục Ngạn: Lục Ngạn là nơi trồng vải thiều lớn nhất cả nước, nhờ đất đá son phù hợp và thiên nhiên ưu đãi. Quả vải thiều Lục Ngạn có vị ngọt, mùi thơm đặc trưng và là sản vật của Bắc Giang, được xuất khẩu ra nước ngoài.
  • Cam sành Bố Hạ: Cam Bố Hạ là loại cam số 1 của đất nước, có vị ngọt đậm, mùi thơm đặc trưng và hàm lượng dinh dưỡng cao. Cam Bố Hạ đã từng là niềm tự hào của người dân Bắc Giang.
  • Bánh đa Kế: Bánh đa Kế là một loại bánh đặc sản được làm ở làng Dĩnh Kế. Nó có vị giòn, ngọt và hương thơm của gạo mới và nắng quê Bắc Bộ[19].
  • Mỳ Chũ: Mỳ Chũ là một loại mỳ gạo đặc sản từ thị trấn Chũ. Nó có vị ngọt của bột bao thai hồng và sợi mỳ dai không bị nhừ nát.
  • Gà đồi Yên Thế: Gà đồi Yên Thế là giống gà có chất lượng thịt thơm ngon, được chăn nuôi trên đồi cây và chăn thả theo quy trình sinh học. Thị trường tiêu thụ của gà đồi không chỉ trong huyện mà còn ra thị trường trong và ngoài nước.
  • Nham trám Hoàng Vân, Hiệp Hòa: Nham trám là một đặc sản của Hiệp Hòa, được làm từ trám đen Hoàng Vân kết hợp với thịt lợn đốt, cá mè và núc nác.

Danh sách đặc sản và ẩm thực ở Bắc Giang còn bao gồm nhiều món như bánh đúc Đồng Quan, khoai sọ Lục Nam, chè kho Mỹ Độ, mì gạo Châu Sơn, rượu men lá Kiên Thành, cua da Yên Dũng, rau cần Hoàng Lương, gạo thơm Yên Dũng, củ đậu Lục Nam, gỏi cá mè Lý Viên, vải thiều Lục Ngạn, mì gạo Kế và bánh đa nướng Kế.

Các ca khúc về Bắc Giang Sửa đổi

Nghệ thuật chèo ở Bắc Giang Sửa đổi

Bắc Giang là vùng đất thuộc tứ chiếng chèo gốc, một trong những cái nôi của các làn điệu chèo cổ. Trong bảy vị tổ chèo từ thời Đinh đến thời Lý được Lương Thế Vinh chép trong Hý phường phả lục gồm Phạm Thị Trân, Đào Văn Só, Đặng Hồng Lân, Đào Hoa, Từ Đạo Hạnh, Sái Ất, Chính Vịnh Càn thì có hai vị ở chiếng chèo xứ Bắc là Đào Hoa ở lộ Bắc Giang và Sái Ất ở phủ Từ Sơn.

Bắc Giang là đất chèo có tiếng xứ Bắc. Ngoài đặc điểm chung, chèo Bắc Giang còn có nét riêng khi mang âm hưởng đậm nét của vùng trung du miền núi, từ phong cách biểu diễn đến lời ca đều khỏe khoắn và mộc mạc hơn. Những năm 80 của thế kỷ trước, khi sáng tác làn điệu chèo, các nhạc sĩ thường sử dụng chất liệu dân ca quan họ và gần đây còn khai thác dân ca dân tộc thiểu số như hát then, hát ví.[20] Bắc Giang có trên 500 lễ hội truyền thống, được coi là đất diễn cho các chiếu Chèo phát triển phong phú như: làng Đồng Quan (Yên Dũng); làng Then (Lạng Giang); làng Hoàng Mai (Việt Yên); làng Bắc Lý (Hiệp Hòa),...

Yên Dũng có làng Đồng Quan, xã Đồng Sơn là làng có truyền thống hát chèo từ xa xưa, đến nay đội chèo có 18 người cả diễn viên và nhạc công do bà Khổng Thị Tiêu phụ trách; Đội chèo làng Đồng Nhân, xã Đồng Phúc vốn là làng chèo truyền thống, có 14 người do ông Nguyễn Khánh Dư làm đội trưởng. Làng chèo Dốc Sở xã Đồng Sơn có 13 người do ông Nguyễn Văn Dương làm đội trưởng; Làng chèo Tân Ninh xã Tư Mại, đây là làng chèo cổ, có 20 người do ông Lưu Xuân Đức phụ trách. Từ năm 2004 huyện Yên Dũng còn thành lập các câu lạc bộ chèo như: Câu lạc bộ “Chiếu chèo quê” do ông Nguyễn Văn Đán làm chủ nhiệm, CLB có 24 người tập hợp từ các xã trong huyện. CLB Đồng Tiến Đức có 50 người là hội viên, CLB thôn Đồng Nhân xã Đồng Phúc do ông Nguyễn Văn Toàn làm chủ nhiệm. Hầu hết các đội chèo và CLB đều duy trì và phát triển đội ngũ nhạc công của dàn nhạc dân tộc. Huyện Yên Dũng là nơi có những làng chèo truyền thống như: Tân Độ (xã Tân Liễu); Đồng Nhân (xã Đồng Phúc); Tân Ninh, Bắc Am (xã Tư Mại)... Từ năm 2005 đến nay, Yên Dũng đã thành lập được 6 CLB chèo, khôi phục 6 làng chèo truyền thống, thu hút hàng trăm người tham gia. Không chỉ có các CLB hoạt động ở thôn, xã, Yên Dũng còn thành lập mô hình cấp huyện với gần 20 thành viên thường xuyên hoạt động tại CLB chèo Yên Dũng.[21] Năm 2007, huyện Yên Dũng đã tổ chức Liên hoan Tiếng hát chèo lần thứ nhất. Tham gia hội diễn có 21 câu lạc bộ của 21 làng, với hàng trăm diễn viên và nhạc công không chuyên.[22]

Huyện Việt Yên: Có các làng chèo cổ và nay còn một số đội được duy trì ở mức độ hát và dựng các tiểu phẩm mới như: Hoàng Mai (xã Hoàng Ninh); làng Mỏ Thổ (xã Minh Đức); Làng Trung Đồng (xã Vân Trung); làng Kiểu (xã Bích Sơn), làng Vân (xã Vân Hà)... Huyện Tân Yên: Làng Dương Lâm (xã An Dương), đội chèo xã Ngọc Châu; làng Hạ (xã Cao Thượng), riêng làng Hạ vẫn là làng chèo truyền thống, đến nay vẫn duy trì và hoạt động. Đội chèo có 30 người cả diễn viên và nhạc công do ông Trọng Nguyên làm đội trưởng. Huyện Lạng Giang: Làng An Lạc (xã Quang Thịnh) do ông Khải làm đội trưởng; làng Then (xã Thái Đào) do ông Nguyễn Văn Khoa làm đội trưởng (đội có 20 người vừa hát chèo, sử dụng nhạc cụ dân tộc, vừa có dàn nhạc viôlông); làng Liên Sơn (xã Tân Dĩnh) do bà Ngô Thị Liên 70 tuổi làm đội trưởng; và làng Chuông Vàng (xã Tân Hưng). Ở Lạng Giang còn duy trì hát chèo là chủ yếu, ít dựng các trích đoạn truyền thống. Tuy vậy còn giữ được dàn nhạc dân tộc khá phong phú.[23]

Hình ảnh Sửa đổi

Chú thích Sửa đổi

  1. ^ “Phê duyệt và công bố kết quả thống kê diện tích đất đai năm 2020”. Quyết định số 387/QĐ-BTNMT 2022. Bộ Tài nguyên và Môi trường (Việt Nam).
  2. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 89. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  3. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 92. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  4. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 98. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  5. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 100. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  6. ^ Tổng cục Thống kê (2022). Niên giám Thống kê Việt Nam năm 2021 (PDF). Nhà Xuất bản Thống kê. tr. 89. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2022.
  7. ^ Tổng cục Thống kê
  8. ^ “Dân số các tỉnh Việt Nam năm 2018”. Tổng cục Thống kê Việt Nam. Truy cập Ngày 30 tháng 9 năm 2019.
  9. ^ “Tình hình kinh tế, xã hội Bắc Giang năm 2018”. Cổng thông tin điện tử tỉnh Bắc Giang. Truy cập Ngày 12 tháng 10 năm 2019.
  10. ^ Thông cáo báo chí kết quả Tổng điều tra (chính thức)
  11. ^ Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, Tổng cục Thống kê Việt Nam.
  12. ^ Quyết định 130-HĐBT
  13. ^ Nghị định 75/2005/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Bắc Giang thuộc tỉnh Bắc Giang
  14. ^ “Nghị quyết số 510/NQ-UBTVQH15 năm 2022 về việc thành lập thị trấn Phương Sơn thuộc huyện Lục Nam và thị trấn Bắc Lý thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang”.
  15. ^ a b Thư của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang gửi các Nhà đầu tư
  16. ^ “Tổng quan về các Khu công nghiệp tại Bắc Giang”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2011.
  17. ^ VinasDoc. “Chỉ thị 6/CT-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang về việc triển khai nhiệm vụ giáo dục, đào tạo năm học 2022-2023 trên địa bàn tỉnh Bắc Giang”. VinasDoc. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2022.
  18. ^ “Đậm đà hương rượu làng Vân”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2011.
  19. ^ Bánh đa Kế quê mẹ Kinh Bắc
  20. ^ Giữ chuẩn khi cách tân chèo
  21. ^ “Chiếu chèo Yên Dũng”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  22. ^ [Năm 2007, huyện Yên Dũng đã tổ chức Liên hoan Tiếng hát chèo lần thứ nhất. Tham gia hội diễn có 21 câu lạc bộ của 21 làng, với hàng trăm diễn viên và nhạc công không chuyên. Yên Dũng, Bắc Giang: Thức dậy các làng chèo]
  23. ^ “Chèo truyền thống ở Bắc Giang”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.

Liên kết ngoài Sửa đổi