Al-Rayyan Sports Club là một câu lạc bộ đa thể thao tại Qatar hiện đang tham gia những môn thể thao: bóng đá, futsal, bóng rổ, bóng chuyền, bóng ném, điền kinh, bóng bàn, và bơi lội. Sân vận động của câu lạc bộ này là Ahmed bin Ali Stadium tại Umm Al Afaei, Al Rayyan. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1967 sau sự kết hợp giữa đội Rayyan cũ và Nusoor Club. Màu biểu tượng chính thức của đội bóng này là đỏ và đen.[1][2]

Al-Rayyan SC
Tên đầy đủAl-Rayyan Sports Club
(نادي الريان الرياضي)
Biệt danhThe Lions
The Fierce
Thành lập1967; 57 năm trước (1967)
SânSân vận động Ahmed bin Ali
Al Rayyan
Sức chứa40,740
Chủ tịch điều hànhAli Bin Saud Bin Ahmed Bin Ali Al Thani
Người quản lýLaurent Blanc
Giải đấuQatar Stars League
2020–21Qatar Stars League, 3rd of 12
Trang webTrang web của câu lạc bộ
Những môn thể thao mà Al-Rayyan đang tham gia

'Football'

Basketball

Handball

Volleyball

Futsal

Athletics

Al Rayyan SC đã giành được rất nhiều danh hiệu, gồm hai chức vô địch châu Á nội dung bóng rổ, cúp các đội Ả Rập ở nội dung bóng ném, cúp quốc nội ở nội dung bóng đá trong nhà, bóng bàn, và bóng chuyền, cũng như rất nhiều danh hiệu khác. Cả hai đội thuộc nội dung bóng rổbóng chuyền đều vào được đến những giải đấu thuộc tầm cỡ thế giới. Tuy nhiên, đội bóng đá mới được chú ý nhiều nhất bởi những người đứng đầu câu lạc bộ, truyền thông và người hâm mộ. Câu lạc bộ này cũng đang có hai siêu sao đã từng rất nổi tiếng đang thuộc biên chế của họ, đó là tiền vệ phòng ngự người Pháp - Steven Nzonzitiền vệ người Colombia - James Rodríguez.

Lịch sử sửa

1967–1973: Những năm thành lập đội bóng sửa

Lịch sử của câu lạc bộ Al-Rayyan đầu tiên nên nhắc tới thời kì giữa thập niên 1960, khi mà đội bóng còn được gọi là Al-Rayyan cũ. Al Rayyan cũ, là một đội bóng nghiệp dư, đại bản doanh của họ thời đó chỉ là một phòng ngủ có hai giường và chơi ở một sân bóng của một trường học tại Khu vực New Rayyan. Ngoài ra, đội bóng lúc bấy giờ chỉ tồn tại nhờ tiền quyên góp của người hâm mộ.[3]

Vào năm 1967, câu lạc bộ Al Rayyan bắt đầu có sự sáp nhập giữa hai nhóm – Al Rayyan cũAl Rayyan mới. Từ đó đến nay, Al-Rayyan đã giành được rất nhiều danh hiệu không chỉ trong bóng đá mà còn ở rất nhiều nội dung khác như bóng ném, bóng rổbóng chuyền. Những người xây dựng đội bóng này tin rằng, câu lạc bộ này không chỉ là một câu lạc bộ bình thường, mà sẽ đưa văn hóa của thành phố Al Rayyan mang tầm thế giới. Vào năm 2008, câu lạc bộ tạo ra một tờ báo tên là SOUT AL RAYYAN (Tiếng nói của Al Rayyan), đây là tờ báo đầu tiên chỉ quan tâm tới đội Al Rayyan và thành phố Al Rayyan, đây cũng là tờ báo duy nhất của đội tại Qatar.[4]

Họ muốn gia nhập Liên đoàn bóng đá Qatar, nhưng bị từ chối, vì liên đoàn này muốn họ sáp nhập với đội Al Nusoor – một đội bóng chhung thành phố với Al-Rayyan. Vào 1967, sau thông báo của hội đồng thể thao thành phố Al-Rayyan rằng đội Al-Rayyan này sẽ sáp nhập với Al-Nusoor, Al Rayyan SC mới chính thức được thành lập. Huấn luyện viên đầu tiên của đội là một huấn luyện viên Sudan Ashour Salem, người đang làm tại trung tâm thể dục địa phương. Vào thưở sơ khai, đội bóng này còn lan sang những môn thể thao khác, nổi bật là bóng rổ và bóng ném. Sau đó, với nguồn quyên góp dồi dào của những người hâm mộ, Al Rayyan thậm chí đã xây dựng sân nhà của họ - Sân vận động Doha, đó là sân vận động lớn nhất Qatar lúc bấy giờ.[3]

1973–1988: Buổi đầu sau thành lập sửa

Câu lạc bộ đã rất thành công ở Qatar Stars League trong thập kỉ này, đội bóng có mùa giải đầu tiên của họ là mùa 1972–73. Vào mùa 1974–75, sau một cuộc ẩu đả giữa người hâm mộ, cầu thủ của Al-Rayyan và Al Sadd, Liên đoàn bóng đá Qatar đã ra quyết định đánh Al-Rayyan xuống giải hạng hai Qatar, mặc dù họ đẫ đứng thứ hai mùa đó. Nhưng cũng chính mùa giải sau họ đã giành xuất lên hạng và vô địch vào mùa 1976. Vào mùa giải năm 1977, Liên đoàn bóng đá Qatar đã bãi bỏ hoàn toàn kết quả trận đấu giữa Al-Rayyan và Al-Arabi vì hành động không phù hợp của một cầu thủ thuộc biên chế Al-Arabi. Thủ phạm của hành động trên, Yassin Mustafa đã bị cấm vô thời hạn trong khi hai đội bóng bị cảnh cáo.[5]

Vào năm 1983, Mohammed Bin Hammam Al Abdulla, chủ mới của đội bóng đã xây dựng một đại bản doanh và một sân vận động mới. Họ đã vô địch mùa giải 1983–84 với hiệu số âm, việc đó khiến câu lạc bộ này biến thành một trong 6 đội bóng và đội bóng Qatar duy nhất làm được việc này.[6]

1988–2000: Xuống hạng và sự trở lại sửa

Vào mùa 1987-88, giới chuyên môn và người hâm mộ đã hết sức bất ngờ khi câu lạc bộ này bị xuống hạng lần đầu tiên trong lịch sử (mà không bị đánh xuống hạng).[7] Suất xuống hạng của Al Rayyan được xác định sau trận thua trước đại kình địch của họ, Al Sadd.[5] Tuy vậy, họ vẫn giành được suất lên hạng vào chính mùa giải sau. [cần dẫn nguồn]

Họ thậm chí còn vô địch ngay vào mùa giải mà họ vừa lên hạng sau khi đánh bại Al Sadd. Họ còn vô địch thêm một mùa giải vào năm 1995. [cần dẫn nguồn]

2000–2013: Cơn hạn hán chức vô địch quốc nội sửa

Vào năm 2003, câu lạc bộ này đã khánh thành một sân vận động mới – Ahmed bin Ali vào thời kì mà Sheikh Mishaal Al Thani mới lên nắm quyền điều hành câu lạc bộ. [cần dẫn nguồn]

Mặc dù có sân mới, Al Rayyan vẫn không thành công mấy ở giải quốc nội; tuy nhiên họ đã đứng thứ ba giải quốc nội dưới thời huấn luyện viên Paulo Autuori. Nhưng dù sao, họ vẫn thành công ở giải Emir's Cup và cúp Heir Apparent với 8 chức vô địch trong 14 năm.

2014–nay: Hiện nay sửa

Vào mùa 2014-15, câu lạc bộ đã vô địch giải Qatargas League và trở lại Qatar Stars League. Vào ngày 28 tháng 11 năm 2015, Al-Rayyan phá kỉ lục về những trận thắng liên tiếp với 11 trận thắng như vậy.

Vào này 5 tháng 3 năm 2016, sau 21 năm vắng bóng chức vô địch giải quốc nội, họ cuối cùng cũng được nâng cao chiếc cúp này và trở thành đội bóng đầu tiên thắng hai giải quốc nội trong hai năm.[8] Thế nhưng, hiện nay họ đang thể hiện màn trình diễn đáng thất vọng khi liên tiếp không vô địch giải quốc nội.[9]

Những người hâm mộ sửa

 
Cổ động viên của Al Rayyan trong một trận chung kết của Emir Cup.

Câu lạc bộ được ủng hộ ở khắp vùng vịnh Ba Tư cũng như các nơi khác trên thế giới nhờ những bản hợp đồng bom tấn của họ.[2] Vào năm 2010, họ có nhiều người đến sân nhất giải Qatar Stars League.[10] Đội người hâm mộ của câu lạc bộ giành được giải người hâm mộ cuồng nhiệt nhất của QFA vào mùa 2008/2009, và họ cũng thắng giải này cùng với Al Sadd vào mùa giải 2012/13.[11]

Danh hiệu sửa

Qatar Stars League

Cúp Emir

  • Vô địch (6): 1998–99, 2003–04, 2005–06, 2010, 2011, 2013

Cúp các Hoàng Tử Qatar

Cúp Sheikh Jassim

  • Vô địch (5): 1992, 2000, 2012, 2013, 2018

Những trận đấu mang tầm châu lục sửa

Mùa giải Giải đấu Vòng đấu Đối thủ Sân nhà Sân khách Tổng tỷ số
2019 AFC Champions League Play-off round   Saipa
3–1
Bảng B   Al-Ittihad
0–2
5–1
4th
  Lokomotiv Tashkent
2–1
3–2
  Al Wahda
1–2
4–3
2020 AFC Champions League Play-off round   Esteghlal
0–5

Đại kình địch sửa

Al-Sadd sửa

Hai đội bóng này đã là đại kình địch ngay từ thuở đầu của giải đấu. Những trận đấu giữa hai đội còn hay được gọi là "Siêu kinh điển Qatar"[12]

Al-Duhail sửa

Al-Arabi sửa

Cầu thủ sửa

Đội hình hiện tại sửa

Kể từ Qatar Stars League:

No Position Player Nation
1 TM Fahad Younes   Qatar
2 HV Ali Malolah (mượn từ Al-Duhail)   Qatar
3 HV Shoja' Khalilzadeh   Iran
5 HV Dame Traoré   Qatar
6 TV Abdurahman Al-Korbi   Qatar
7 HV Khalid Muftah   Qatar
8 TV Yacine Brahimi   Algérie
10 TV James Rodríguez   Colombia
11 TV Abdulaziz Hatem   Qatar
12 TV Mohamed Surag U19   Qatar
13 TM Saud Al Hajiri   Qatar
14 TV Tameem Al-Abdullah   Qatar
15 HV Mouafak Awad   Qatar
17 TV Hashim Ali (mượn từ Al-Sadd)   Qatar
18 HV Abdullah Al-Ali   Qatar
19 Ibrahim Masoud   Qatar
20 TV Naif Al-Hadhrami   Qatar
21 HV Mohammad Jumaa   Qatar
22 Yohan Boli   Bờ Biển Ngà
23 TV Ahmed Abdul Maqsoud   Qatar
24 HV Yousif Umar   Qatar
25 TV Mostafa Abouelela U19   Qatar
26 Ahmed Al-Rawi U19   Qatar
27 HV Mubarak Al-Nasser   Qatar
28 Moameen Mutasem   Qatar
30 TM Oumar Barry   Qatar
34 TM Ahmed Hassan   Qatar
36 TM Yousef Al-Sayed U19   Qatar
45 TM Abdullah Al-Radhi   Qatar
70 TV Khalid Ali Sabah   Qatar
77 TV Hadi Ali   Qatar
88 TV Steven Nzonzi   Pháp
HV Ahmed Yasser   Qatar

Cầu thủ chưa đăng ký sửa

No Position Player Nation
4 TV Franck Kom   Cameroon

Đang cho mượn sửa

No Position Player Nation
16 TV Abdurahman Al-Harazi (cho Al-Ahli mượn)   Qatar
Abdalaziz Al Hasia (cho Al-Ahli mượn)   Qatar

Đội ngũ huấn luyện viên sửa

Cập nhật lần cuối: Tháng 12 năm 2021.[13]

Đội một sửa

Vai trò Tên
Huấn luyện viên trưởng   Laurent Blanc[14]
Trợ lý huấn luyện viên   Franck Passi[15]
Huấn luyên viên thể chất   Neneca
Huấn luyện viên thủ môn   Philippe Lambert

Những cầu thủ đáng chú ý sửa

Đây là một danh sách về những cầu thủ có đóng góp to lớn cho đội tuyển quốc gia của họ hoặc cho câu lạc bộ. Phải có ít nhất 90 trận cho câu lạc bộ hoặc 100 trận cho đội tuyển quốc ia mới được cho vào danh sách này.

Những cầu thủ trong nước

Những cầu thủ nước ngoài

Lịch sử các huấn luyện viên sửa

Al Rayyan sửa

Danh sách các huấn luyện viên trong lịch sử đội bóng Al-Rayyan (1967-nay):

Notes
  • 1. Huấn luyện viên không chuyên; làm giáo viện tại trung tâm thể dục thể thao địa phương.
  • 2. Huấn luyện viên chuyên nghiệp đầu tiên.
  • 3. Huấn luyện viên không thuộc vùng Ả Rập đầu tiên.

Tham khảo sửa

  1. ^ “الرئيسية / أخبار الرياضة / مفاجأه من العيار الثقيل لصاحب اكبر قاعده جماهيريه في قطر: الريان يهبط الى دوري الدرجه الثانيه القطري”. chatal3nabi.com. ngày 12 tháng 4 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2014.
  2. ^ a b الاحتفالات تجتاح الدوحة بعد تتويج الريان بكأس الأمير (bằng tiếng Ả Rập). al-sharq.com. ngày 19 tháng 5 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2013.
  3. ^ a b الريان "حكاية" قطرية ! (bằng tiếng Ả Rập). al-watan.com. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2014.
  4. ^ “نبذة عن تاريخ نادي الريان القطري”. iraqisworld.ahlamontada.com. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2016.
  5. ^ a b الدوري القطري تاريخ و نجوم (bằng tiếng Ả Rập). aljazeerasport.net. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2013.
  6. ^ “Trivia on Winning Domestic Championships”. rsssf.com. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2013.
  7. ^ “1987 / 1988 هبط الريان وصعد الغرافة” (bằng tiếng Ả Rập). superkoora.com. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2013.
  8. ^ “الريان بطلا للدوري القطري بعد انتظار دام 21 عاما | المصري اليوم”. www.almasryalyoum.com (bằng tiếng Ả Rập). Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2016.
  9. ^ “Al Rayyan's standing table”. https://www.fctables.com/teams/al-rayyan-179675/ (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2022. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  10. ^ “Spectator report per match of QSL” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2013.
  11. ^ “Sadd's Khalfan, Raul, Amotta shine at QFA awards gala”. gulf-times.com. ngày 20 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2013.
  12. ^ “Qatar El Classico: One of the Middle East's biggest football matches”. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2021.
  13. ^ “Coaching Staff”. Transfermarkt. Lưu trữ bản gốc 10 Tháng mười hai năm 2021.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  14. ^ “Al Rayyan”. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2021.
  15. ^ “Franck Passi”. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2021.
  16. ^ a b “المدرب – عيد مبارك (Coach – Eid Mubarak)”. mundial11.com (bằng tiếng Ả Rập). Bản gốc lưu trữ 7 Tháng tám năm 2017. Truy cập 6 Tháng tám năm 2017.
  17. ^ زامل الكواري (bằng tiếng Ả Rập). alrayyan-sc.net. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2014.
  18. ^ كاظمة والنصر يتنافسان على لقب اندية الخليج (bằng tiếng Ả Rập). Ad Diyar. 31 tháng 12 năm 1996. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2017.
  19. ^ المدرب المتألق في الملاعب القطرية سعد حافظ قدت فريق التضامن لإحراز كأس قطر رفضت العقد اللبناني إكراماً لعيون النصر خرجت نجوم المنتخب القطري (bằng tiếng Ả Rập). almadapaper.net. Truy cập ngày 1 tháng 9 năm 2013.
  20. ^ “Archived copy” الريان القطري يستغني عن الهويدي (bằng tiếng Ả Rập). alazraq.com. 18 tháng 3 năm 2002. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2013.Quản lý CS1: bản lưu trữ là tiêu đề (liên kết)
  21. ^ a b “Al Rayyan Manager history”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2021.