Frank de Boer
Frank de Boer (15 tháng 5 năm 1970 tại Hoorn) là cầu thủ hậu vệ bóng đá người Hà Lan, là em trai song sinh (muộn 10 phút) của Ronald de Boer. Với 112 lần khoác áo Hà Lan, anh từng nắm kỉ lục đó một thời cho đến khi thủ môn Edwin van der Sar vượt qua được thành tích đó gần đây. Lần đầu anh ra sân thi đấu cho đội tuyển Hà Lan là trong trận gặp Ý vào tháng 9 năm 1990.
De Boer huấn luyện Ajax năm 2011 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Franciscus de Boer | ||
Ngày sinh | 15 tháng 5, 1970 | ||
Nơi sinh | Hoorn, Hà Lan | ||
Chiều cao | 1,81 m | ||
Vị trí | Hậu vệ | ||
Thông tin câu lạc bộ | |||
Đội hiện nay | Hà Lan (huấn luyện viên) | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
1984–1988 | Ajax | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
1988–1999 | Ajax | 328 | (30) |
1999–2003 | Barcelona | 144 | (5) |
2003–2004 | Galatasaray | 15 | (1) |
2004 | Rangers | 15 | (2) |
2004–2005 | Al-Rayyan | 16 | (5) |
2005–2006 | Al-Shamal | 1 | (0) |
Tổng cộng | 519 | (43) | |
Đội tuyển quốc gia | |||
1990–2004 | Hà Lan | 112 | (13) |
Các đội đã huấn luyện | |||
2010–2016 | Ajax | ||
2016 | Inter Milan | ||
2017 | Crystal Palace | ||
2018–2020 | Atlanta United | ||
2020– | Hà Lan | ||
Thành tích
| |||
* Số trận và số bàn thắng của câu lạc bộ chuyên nghiệp chỉ được tính cho giải bóng đá vô địch quốc gia |
Anh bắt đầu sự nghiệp tại câu lạc bộ Ajax ở vị trí hậu vệ cánh trái, sau đó anh chuyển vào chơi ở vị trí trung vệ, vị trí đã theo anh trong suốt những năm thi đấu cho đội tuyển quốc gia. Sau khi giành cả Cúp C1 và Cúp UEFA cùng với Ajax anh đã gia nhập câu lạc bộ Barcelona. Tại Barcelona anh đã không đạt được danh hiệu nào đáng kể vì thế anh đã chuyển sang Galatasaray vào mùa hè năm 2003 sau đó lại sang Rangers vào tháng 1 năm 2004. Sau Euro 2004 anh cùng với người em sinh đôi của mình sang thi đấu ở Qatar cho câu lạc bộ Al-Rayyan SC.
Frank de Boer là đội trưởng của đội tuyển Hà Lan cho tới khi anh giải nghệ sau Euro 2004. Anh được coi như là một hậu vệ tài năng với sức làm việc bền bỉ và tầm quan sát tốt. Anh tham dự 2 kỳ World Cup 1994, 1998 và 3 kỳ Euro 1992, 2000 và 2004. Ở World Cup 1998, đường chuyền dài chính xác của anh đã tạo cơ hội cho Dennis Bergkamp ghi bàn thắng quyết định loại đội tuyển Argentina khỏi trận tứ kết. Tuy nhiên Hà Lan lại bị thua Brasil ở trận bán kết và sau đó lại thua Croatia ở trận tranh giải 3. Ở các kỳ Euro đội tuyển Hà Lan của anh đều bị thất bại ở trận bán kết. Euro 1992 là thất bại trước Đan Mạch trên chấm 11m, Euro 2000 là thất bại trước Ý trên chấm 11m, Euro 2004 là thất bại trước Bồ Đào Nha với tỉ số 1-2.
Frank de Boer chính thức giải nghệ năm 2006, năm 2007 anh trở lại Ajax tham gia công tác huấn luyện cho đội trẻ.
Thành tíchSửa đổi
Sự nghiệp cầu thủSửa đổi
Sửa đổi
- Ajax Amsterdam
- Vô địch Eredivisie:1990, 1994, 1995, 1996, 1998
- Vô địch Cúp Hà Lan (KNVB Cup): 1993, 1998
- Vô địch Siêu cúp Hà Lan (Johan Cruijff Shield): 1993, 1994, 1995
- Vô địch UEFA Champions League (C1): 1995
- Á quân UEFA Champions League (C1): 1996
- Bán kết UEFA Champions League (C1): 1997
- Vô địch UEFA Cup: 1992
- Vô địch Siêu cúp châu Âu (UEFA Super Cup): 1995
- Vô địch Cúp liên lục địa (Intercontinental Cup): 1995
- Barcelona
- Vô địch La Liga: 1999
- Á quân La Liga: 2000
- ĐT Hà Lan (Netherlands)
- Hạng 4 thế giới (FIFA World Cup): 1998
- Bán kết Cúp châu Âu (Euro): 1992, 2000, 2004
Sự nghiệp Huấn luyện viênSửa đổi
- Ajax Amsterdam
- Vô địch Eredivisie: 2011, 2012, 2013, 2014
- Vô địch Siêu cúp Hà Lan (Johan Cruijff Shield): 2013
Trợ lý ĐT Hà LanSửa đổi
- Á quân Cúp thế giới: 2010
Cá nhânSửa đổi
- Cầu thủ
- ESM Team of the Year: 1995-96
- FIFA World Cup All-Star Team: 1998
- UEFA Euro Team of the Tournamen t: 2000
- Huấn luyện viên
- Amsterdamse coach van het jaar (De Fanny): 2012, 2014
- Rinus Michels Award: 2013, 2014
- JFK's Greatest Man Award: 2013