Bách Tế Thánh vương

(Đổi hướng từ Bách Tế Thánh Vương)

Thánh Vương, Minh Vương hay Thánh Minh Vương (mất 554, trị vì 523–554) là vị quốc vương thứ 26 của Bách Tế, một trong Tam Quốc Triều Tiên. Ông là vương tử của Bách Tế Vũ Ninh Vương. Ông đã đưa Phật giáo lên làm quốc giáo, dời đô, và đã thành công trong việc khai hoang vùng đất ở trung tâm bán đảo Triều Tiên.

Bách Tế Thánh vương
Vua Bách Tế
Tượng Guze Guanyin được cho là làm theo hình ảnh của Đức Thánh Vương
Trị vì19 TCN - 18
Đăng quang19 TCN
Tiền nhiệmBách Tế Vũ Ninh Vương
Kế nhiệmBách Tế Uy Đức vương
Thông tin chung
Sinh38 TCN
Mất19
Bách Tế Thánh vương
Hangul
성왕, 명왕, 성명왕
Hanja
聖王, 明王, 聖明王
Romaja quốc ngữSeong-wang, Myeong-wang, Seongmyeong-wang
McCune–ReischauerSŏng-wang, Myŏng-wang, Sŏngmyŏng-wang
Hán-ViệtThánh Vương, Minh Vương, Thánh Minh Vương
Bách Tế Thánh vương
Hangul
명농
Hanja
明襛
Romaja quốc ngữMyeongnong
McCune–ReischauerMyŏngnong

Đối ngoại và Phật giáoSửa đổi

Thánh Vương là một người bảo trợ vĩ đại của Phật giáo tại Triều Tiên, và đã cho xây nhiều đền chùa và chào đón các sư tăng đem kinh Phật đến thẳng từ Ấn Độ. Năm 528, Bách Tế chính thức coi Phật giáo là quốc giáo. Ông duy trì quan hệ quốc gia với nhà Lương Trung Quốc cũng như Nụy Quốc tại Nhật Bản.

Ông cử sứ thần sang Lương vào năm 534 và 541, thỉnh cầu thợ thủ công cũng như các công trình Phật giáo khác và một thầy tăng. Theo sử sách Trung Hoa, tất cả các yêu cầu này đều được đáp ứng. Một đoàn sứ thần được cử đi vào năm 549, và đến kinh đô nhà Lương khi nó đã nằm trong tay của quân nổi loạn Hầu Cảnh, đoàn sứ thần bị đưa vào nhà giam để kêu than về sự thất thủ của kinh đô.

Ông được thuật là đã cử một đoàn sứ thần bao gồm Norisachigye (노리사치계, 怒利斯致契, Nộ Lợi Tư Trí Khiết ?-?) vào năm 538 đến Nhật Bản và mang theo một bức họa Phật Thích Ca Mâu Ni và một số kinh Phật đến triều đình Nhật Bản. Điều này theo truyền thống được coi là sự giới thiệu chính thức của Phật giáo vào Nhật Bản. Một miêu tả về việc này được ghi trong Gangōji Garan Engi (Nguyên Hưng tự Già lam Khởi tịnh).

Dời đôSửa đổi

Năm 538, ông dời đô từ Hùng Tân (Ungjin, nay là Gongju) xuống sâu hơn về phía nam đến Tứ Tỉ (Sabi, nay là Buyeo), ven sông Geum (Cẩm Giang). Không giống như lần dời đô trước từ Uý Lễ Thành về Hùng Tân do áp lực quân sự từ Cao Câu Ly, việc dời đô đến Tứ Tỉ do nhà vua tiến hành nhằm làm tăng cường quyền lực của vương tộc, được sự trợ giúp chính trị của gia tộc Tát (Sa) có căn cứ tại Tứ Tỉ.

Ông hoàn tất việc tái tổ chức quản lý đất nước nhằm tăng cường quyền kiểm soát trung ương, để chống lại quyền lực của các gia tộc quý tộc. Ông cũng đổi tên hiệu của đất nước thành Nam Phù Dư (Nambuyeo),[1] để nhấn mạnh liên kết với Phù Dư Quốc xưa kia.

Chiến tranhSửa đổi

Bách Tế đã duy trì một thế kỷ liên minh với nước láng giềng Tân La, để cân bằng với mối đe dọa của Cao Câu Ly ở phía bắc. Với sự hỗ trợ của Tân La và liên minh Già Da, Thánh Vương đã lãnh đạo một chiến dịch dài ngày để nhằm lấy lại Thung lũng sông Hán, vùng đất trung tâm trước đây của Bách Tế bị mất về tay Cao Câu Ly vào năm 475. Bách Tế chiếm lại cố đô đầu tiên vào năm 551. Chiến dịch lên đến đỉnh điểm vào năm 553 với chiến thắng trong một loạt các trận chiến hao tốn tiền của trước các công sự của Cao Câu Ly.

Tuy nhiên, theo một thỏa ước bí mật với Cao Câu Ly, quân Tân La đã giả vờ đến hỗ trợ và sau đó đã tấn công quân Bách Tế vốn đã mệt mỏi và cuối cùng làm chủ toàn bộ khu vực Thung lũng sông Hán. Tức giận trước sự phản bội này, năm sau Thánh Vương đã phát động một cuộc tấn công trả đũa Tân La. Cuộc tấn công này do thái tử (và sau này trở thành Uy Đức Vương) lãnh đạo và liên minh với Già Da. Song kết cục là Thánh Vương cùng 30.000 quân Bách Tế đã bị giết trong cuộc chiến thảm khốc này. Thất bại này đã dẫn đến sự sút giảm đáng kể quyền lực của hoàng gia.

Di sảnSửa đổi

Vương tử thứ ba của ông, Thái tử Lâm Thánh (琳聖太子, Imseongtaeja), đã đến Nhật Bản, sau khi phụ thân bị giết. Thái tử Lâm Thánh được cho là đã đóng một vai trò quan trọng trong sự hình thành của nhà nước Nhật Bản thời kỳ đầu.

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ Il-yeon: Samguk Yusa: Legends and History of the Three Kingdoms of Ancient Korea, translated by Tae-Hung Ha and Grafton K. Mintz. Book Two, page 119. Silk Pagoda (2006). ISBN 1-59654-348-5

Xem thêmSửa đổi