Georgy Maksimilianovich Malenkov
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Georgy Maksimilianovich Malenkov (tiếng Nga: Гео́ргий Максимилиа́нович Маленко́в; phiên âm tiếng Việt: Malencốp) là một chính khách Liên Xô.
Georgy Maksimilianovich Malenkov | |
---|---|
Гео́ргий Максимилиа́нович Маленко́в | |
Chân dung Malenkov năm 1964 | |
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng | |
Nhiệm kỳ 6 tháng 3 năm 1953 – 8 tháng 2 năm 1955 | |
Đồng chủ tịch | |
Phó Chủ tịch |
|
Tiền nhiệm | Iosif Stalin |
Kế nhiệm | Nikolai Bulganin |
Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô | |
Nhiệm kỳ 9 tháng 2 năm 1955 – 29 tháng 6 năm 1957 | |
Thủ tướng | Nikolai Bulganin |
Nhiệm kỳ 2 tháng 8 năm 1946 – 5 tháng 3 năm 1953 | |
Thủ tướng | Iosif Stalin |
Nhiệm kỳ 15 tháng 5 1944 – 15 tháng 3 1946 | |
Thủ tướng | Iosif Stalin |
Bí thư thứ hai Đảng Cộng sản Liên Xô | |
Nhiệm kỳ 31 tháng 8 năm 1948 – 16 tháng 10 năm 1952 | |
Tiền nhiệm | Andrei Zhdanov |
Kế nhiệm | Nikita Khrushchyov (de facto) |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Orenburg, Đế quốc Nga | 6 tháng 12 năm 1901
Mất | 14 tháng 1 năm 1988 Moskva, Nga Xô viết, Liên Xô | (86 tuổi)
Nơi an nghỉ | Nghĩa trang Kuntsevo, Moskva |
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Liên Xô (Stalinist, 1956–1957) (1920–1961) |
Bạn đời | Valeriya Golubtsova (1920–1987) |
Con cái | 3 |
Alma mater | Trường Kỹ thuật Cao cấp Moskva |
Tôn giáo | Vô thần cải Chính thống giáo Nga |
Malenkov sinh ngày 8/1/1902 ở Orenburg, Nga. Ông tốt nghiệp trung học phổ thông khi Cách mạng Nga (1917) nổ ra. Malenkov gia nhập Hồng Quân năm 1919 và đến năm 1920 thì được kết nạp vào Đảng Cộng sản Liên Xô, trở thành Chính ủy trên một đoàn tàu tuyên truyền ở Turkestan trong thời kỳ Nội chiến Nga.[2]
Sau chiến tranh, Malenkov đi học đại học và nhận bằng Kỹ sư của Trường Kỹ thuật Cao cấp Moskva.[3] Ra trường, ông về công tác tại Ban Tổ chức của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.[3] Ông nhanh chóng trở thành người thân cận của Stalin và có vai trò quan trọng trong cuộc Đại thanh trừng.
Năm 1939, Malenkov trở thành Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô và đứng đầu Ban Tổ chức của đảng này. Năm 1941, ông trở thành Ủy viên Dự khuyết Bộ Chính trị.
Khi Đức Quốc xã xâm lược Liên Xô, Malenkov trở thành Ủy viên Ủy ban Quốc phòng mà Stalin đứng đầu.[3]
Năm 1946, Malenkov trở thành Ủy viên chính thức của Bộ Chính trị, rồi trở thành nhân vật số 2 trong đảng sau Stalin. Khi Stalin qua đời, Malenkov trở thành Bí thư thứ nhất của Đảng, Chủ tịch Hội đồng Dân ủy (Thủ tướng). Nhưng vì các Ủy viên Bộ Chính trị khác phản đối, Malenkov buộc phải rút khỏi Ban Bí thư, chỉ còn giữ chức Thủ tướng thêm 2 năm nữa. Đến năm 1955, Malenkov bị buộc từ chức Thủ tướng vì thân với Beria, song vẫn trong Bộ Chính trị.
Đến năm 1957, Malenkov bị buộc tội tham gia Nhóm chống Đảng và bị loại khỏi Bộ Chính trị. Năm 1961, ông bị khai trừ khỏi Đảng. Những năm sau đó, ông làm Giám đốc một nhà máy phát điện ở Ust'-Kamenogorsk, Kazakhstan.[4]
Georgy Maksimilianovich Malenkov qua đời ngày 14 tháng 1 năm 1988 tại Moskva.
Chú thích
sửa- ^ Tuy không không có khả năng kiểm soát toàn thể bộ máy đảng ủy, Malenkov vẫn được công nhận là "primus inter pares" trong vòng hơn một năm sau khi Stalin mất. Tới tháng 3 năm 1954, ông được liệt kê là thủ lĩnh hàng đầu của Liên Xô và vẫn tiếp tục chủ trì các cuộc họp của Bộ Chính trị.[1]
Tham khảo
sửa- ^ Brown 2009, tr. 232–233.
- ^ Zubok, V.M. & Pleshakov, K. (1996). Inside the Kremlin's Cold War: From Stalin to Khrushchev. Harvard University Press. Đã bỏ qua tham số không rõ
|trong=
(trợ giúp)Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết) - ^ a b c Paxton, J. (2004). Leaders of Russia and the Soviet Union: From the Romanov dynasty to Vladimir Putin. CRC Press. Đã bỏ qua tham số không rõ
|trong=
(trợ giúp) - ^ “RUSSIA: The Quick & the Dead”. Time Magazine. 22 tháng 7 năm 1957. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2010.