Gia Cát hay Chư Cát (chữ Hán: 諸葛, Bính âm: Zhuge) là một họ của người Trung Quốc. Gia Cát là một trong 60 họ kép (gồm hai chữ) trong danh sách Bách gia tính, nó xếp thứ 314 trong danh sách này. Tuy số lượng người Trung Quốc mang họ này khá hiếm nhưng Gia Cát vẫn rất nổi tiếng vì đây là họ của Gia Cát Lượng, thừa tướng nhà Thục Hán thời Tam Quốc.

Gia Cát
họ Gia Cát viết bằng chữ Hán
Tiếng Trung
Chữ Hán諸葛
Trung Quốc đại lụcbính âmZhuge
Phiên âm Hán ViệtGia Cát

Nguồn gốc

sửa

Theo Tam Quốc chí chú của Trần Thọ, Bùi Tùng Chi thì tổ tiên của dòng họ Gia Cát là người họ Cát.[1]

Sách Khổng Minh Gia Cát Lượng nêu quan điểm chữ "Cát" trong họ Gia Cát có nguồn gốc từ dòng dõi của Cát Anh, một tướng theo Trần Thắng khởi nghĩa chống Tần. Cát Anh có công, bị Trần Thắng giết oan. Khi Hán Văn Đế lên ngôi đã sai người tìm dòng dõi Cát Anh và cấp đất Gia làm nơi ăn lộc. Một chi sau này lấy sang họ Gia Cát - ghép chữ "Cát" cũ và đất "Gia".[2]

Đất Gia đến thời Đông Hán thuộc quận Lang Gia (hay Lang Nha), Từ Châu, ngày nay là huyện Nghi Nam, thành phố Lâm Nghi, tỉnh Sơn Đông.

Người Trung Quốc nổi tiếng

sửa

Thời Lưỡng Hán

sửa
  • Gia Cát Phong [zh], Tư Lệ Hiệu úy nhà Đông Hán, hầu hết các chi của dòng họ Gia Cát thời Tam Quốc đều là dòng dõi của Gia Cát Phong.

Thời Tam Quốc

sửa

Trong thời kỳ Tam Quốc, gia tộc Gia Cát xuất hiện nhiều nhân vật quan trọng, phục vụ cho cả ba triều đại Ngụy, Thục, Ngô.

Thế hệ thứ nhất:

Thế hệ thứ hai:

Thế hệ thứ ba:

Thế hệ thứ tư:

Hậu Tam Quốc

sửa

Thời hiện đại

sửa

Nhân vật hư cấu

sửa

Người Nhật Bản nổi tiếng

sửa

Nhân vật lịch sử

sửa

Nhân vật hư cấu

sửa

Người Việt Nam nổi tiếng

sửa

Nhân vật lịch sử

sửa

Nhân vật hư cấu

sửa

Thôn Bát quái?

sửa

Vào cuối đời Tống, đầu nhà Nguyên (khoảng năm 1300), hậu duệ của Gia Cát Lượng lập cư ở phía nam thiết lập thôn Gia Cát (hay thôn Bát Quái) tại thị trấn Lan Khê, Triết Giang. Thôn được xây dựng bởi đời thứ 27 của Gia Cát Lượng là Gia Cát Đại Sư, vận dụng học thuyết Kham dư (phong thủy) vào Bát quái trận đồ của ông tổ mình, thiết lập thôn trang án theo Cửu cung bát quái. Năm 1925, chiến tranh ác liệt, quân đội của Quốc dân đảng là Tiêu Kính Quang đánh nhau với quân phiệt Tôn Truyền Phương 3 ngày dữ dội sát bên thôn Bát Quái nhưng không có viên đạn nào lọt vào thôn. Khi quân Nhật tấn công xuống phía nam, đại quân kéo qua đại lộ Long Cương nhưng không phát hiện ra thôn này. Duy có 1 lần máy bay Nhật ném bom trúng 1 phòng trong thôn. Thôn Gia Cát hay Bát Quái được mệnh danh là "Trung Quốc đệ nhất thôn".[6]

Gia Cát hay Chư Cát?

sửa

Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu phiên chữ 諸 thành chư, tức họ 諸葛 phải đọc là Chư Cát.

Tuy nhiên, nhiều từ điển Hán Việt ghi 2 cách đọc chưgia, đồng thời ở mục họ 諸葛 (Zhūgé) thì chỉ phiên là Gia Cát. Tại Wiktionary tiếng Anh chữ 諸 có hai phiên thiết là Chương Ngư thiết 切 và Chính Xa thiết 切. Chương Ngư thiết 切 cho ra âm Chư; còn Chính Xa thiết đúng ra phải cho âm Cha, nhưng vì Chính 正 còn một âm nữa là Giêng (trong tháng Giêng, 正月, thường đọc là Chính nguyệt, nhưng đọc Giêng nguyệt thì hợp lý hơn) nên Giêng Xa thiết cho ra âm Gia.

Xem thêm

sửa

Chú thích

sửa
  1. ^ Trần Thọ, Tam Quốc chí, Bùi Tùng Chi chú: Ngô thư quyển 7 - Trương Cố Gia Cát Bộ truyện.
  2. ^ Trần Văn Đức (2008), Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện, Nhà xuất bản Văn học, tr 25.
  3. ^ Truyền nhân Khổng Minh, Chu Du
  4. ^ Quan điểm và phương pháp biên soạn Việt điện u linh tập
  5. ^ “Ngắm "anh Dự" của Táo quân 2010”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2014.
  6. ^ “Kỳ bí thôn bát quái của hậu duệ Gia Cát Lượng”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2014.

Tham khảo

sửa