Ayase Haruka

nữ ca sĩ, diễn viên người Nhật Bản (sinh 1985)
(Đổi hướng từ Haruka Ayase)

Ayase Haruka (綾瀬 はるか? sinh ngày 24 tháng 3 năm 1985) là một nữ ca sĩ và diễn viên người Nhật Bản hiện đang liên kết với công ty Horipro Inc. Cô bắt đầu sự nghiệp với nghề người mẫu áo tắm (gravure idol) vào năm 2000. Sau đó cô đã thành danh với nghề diễn viên ở cả mảng phim điện ảnh lẫn truyền hình của Nhật Bản.

Ayase Haruka
綾瀬 はるか
Ayase tại Liên hoan phim Cannes, tháng 5 năm 2015
SinhTademaru Aya
24 tháng 3, 1985 (39 tuổi)
Thành phố Hiroshima, Hiroshima, Nhật Bản
Học vịCao đẳng Đại học Teikyo
Nghề nghiệp
  • Ca sĩ
  • người mẫu
  • nữ diễn viên
Năm hoạt động2000–nay
Chiều cao1,66 m (5 ft 5+12 in)

Xuất thân

sửa

Ayase sinh ra ở thành phố Hiroshima, tỉnh Hiroshima;[1] lớn lên ở Asaminami.[2] Gia đình cô là nông dân, trồng đủ loại rau theo mùa.[3] Chị của bà nội Ayase đã thiệt mạng trong vụ ném bom Hiroshima vào ngày 6 tháng 8 năm 1945.[1] Năm 2005, nhân dịp tròn 60 năm xảy ra thảm kịch và để thực hiện bộ phim tài liệu "Hiroshima" (TBS), Ayase đã ghé thăm nhà cha mẹ cô ở Hiroshima, và cô đã nghe bà mình lần đầu kể chuyện về thảm kịch bom nguyên tử hồi đó.[1]

Sự nghiệp

sửa

Người mẫu

sửa

Năm 2000, cô có màn ra mắt ngành giải trí khi giành chiến thắng giải của ban giám khảo tại cuộc thi tìm kiếm tài năng của Horipro lần thứ 25.[4][5][6] Lúc giành chiến thắng cuộc thi, cô có nghệ danh là Tademaru Aya, rồi khi bắt đầu sự nghiệp cô mới sử dụng nghệ danh Ayase Haruka. Nghệ danh do chính cô và đội tư vấn của cô chọn sau một cuộc trò chuyện mở trên Internet từ 16.000 đề xuất, và cuối cùng họ chọn nghệ danh kể trên vào ngày 28 tháng 2 năm 2001.[7] Tính đến 2004, Ayase chủ yếu hoạt động trong nghề người mẫu áo tắm (gravure idol). Ngoài xuất hiện trong các sách ảnh và tạp chí, chương trình Cosmo Angel của đài địa phương cũng giúp cô có được sự chú ý nhất định. Tuy nhiên, sau một năm làm nghề, cô tăng tới 7kg do áp lực công việc, và khi tham gia dự án Beauty Colosseum của Fuji TV (lúc vẫn làm người mẫu áo tắm), cô định sẽ giải nghệ nếu thực hiện chế độ ăn kiêng thất bại. Có lúc cô đã giảm tới 8kg trong một tháng và ba tuần do ăn kiêng. Sau này, dù thành danh với nghề diễn viên và ngưng làm người mẫu áo tắm, thỉnh thoảng cô vẫn xuất hiện trên các tạp chí tuần san.

Âm nhạc

sửa

Ngày 24 tháng 3 năm 2006, cô ra mắt với vai trò ca sĩ qua đĩa đơn "Period" do Kobayashi Takeshi sản xuất.[8] Đĩa đơn đã giành vị trí số 8 trên bảng xếp hạng Oricon. Ngoài ra cô còn phát hành một số đĩa đơn khác như "Kōsaten Days" (交差点days?) (2006),[9] "Hikōkigumo" (飛行機雲?) (2007)[10] và "Māgaretto" (マーガレット?) (2010).[11]

Diễn xuất

sửa

Năm 2001, cô có vai diễn đầu tay với bộ phim truyền hình Kindaichi Shonen no Jikenbo của đài Nippon TV.[12] Năm 2003, cô sắm vai chính đầu tiên trong bộ phim truyền hình Boku no Ikiru Michi của đài Fuji TV.[13] Năm 2004, cô được chọn vào vai nữ chính của tác phẩm truyền hình Sekai no Chūshin de, Ai o Sakebu của đài TBS.[13] Trong phim Sekai no Chūshin de, Ai o Sakebu, cô đã cạo trọc đầu để thủ vai nữ chính bị mắc bệnh ung thư máu. Cô cũng thực hiện một số thay đổi với vai diễn, chẳng hạn như tăng hoặc giảm cân để phù hợp với vai hơn.[14] Năm 2007, cô thủ vai trong bộ phim truyền hình Hotaru no Hikari của Nippon TV.[13] Năm 2008, trong lần thu thoại cho Shikaotoko Aoniyoshi, cô đã nhiều lần suy ngẫm về cuộc đời, nhiều đến mức cô và bạn diễn Kodama Kiyoshi đã trò chuyện về cuộc đời thâu đêm. Năm 2010, do phần đầu quá ăn khách mà phần hai của bộ phim được lên sóng, rồi đến năm 2012, bản phim điện ảnh đã được trình chiếu.[15]

Năm 2013, cô sắm vai chính trong tác phẩm truyền hình kịch taiga Yae no Sakura của đài NHK.[16] Năm 2015, tác phẩm điện ảnh Umimachi Diary mà cô đóng được chọn tranh giải chính thức tại Liên hoan phim Cannes lần thứ 68.[17][18] Năm 2016, cô hóa thân thành vai Balsa trong bộ phim truyền hình Seirei no Moribito do NHK sản xuất.[19] Cô còn đích thân thể hiện kĩ năng đấu kiếm qua vai diễn vệ sĩ Balsa với vũ khí là một cây giáo ngắn.[20] Cô thể hiện vai diễn này từ mùa đầu tiên đến mùa thứ ba (tương ứng chương cuối của nguyên tác).[21]

Năm 2022, cô lần đầu đảm nhiệm vai diễn trong tác phẩm chiếu vào 9 giờ Thứ Hai là Motokare no Yuigonjou.[22] Đây là lần đầu cô thủ diễn trong phim của Fuji TV sau 14 năm kể từ Shikaotoko Aoniyoshi. Năm 2023, Ayase giành giải nữ diễn viên chính xuất sắc tại giải thưởng Hochi lần thứ 48 nhờ màn thể hiện trong các bộ phim điện ảnh The Legend & ButterflyRevolver Lily.[23]

MC truyền hình

sửa

Năm 2005, Ayase được chọn làm MC của lễ trao giải Japan Record Awards lần thứ 47.[24] Cuối năm ấy, cô là thủ lĩnh đội đỏ tại chương trình NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 64.[25] Cuối năm 2015, cô nhận lời làm MC của chương trình NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 66 lần thứ hai sau hai năm. Năm 2019, cô làm MC của đội đỏ tại chương trình NHK Kōhaku Uta Gassen lần thứ 70, đánh dấu lần thứ ba cô xuất hiện tại chương trình này sau bốn năm.[26]

Đời tư

sửa

Ayase được một người bạn mời tham dự cuộc thi tìm kiếm tài năng của Horipro để tránh phải sinh hoạt ở câu lạc bộ.[27] Cô ấy không có bất kì kĩ năng diễn xuất đặc biệt nào, vì thế cô đã bắt chước linh vật thỏ nổi tiếng ở trường.[28][29] Tại các show tạp kỹ, cô thường thể hiện các kĩ năng bắt chước này. Năm 2006, cô từng bị tạm giữ ở New Zealand vì bị nhầm là gián điệp.[30]

Tháng 8 năm 2014, trong lúc trở về quê nhà Hiroshima, một trận lở đất đã xảy ra trên núi nằm ở phía bắc của thành phố, và Ayase đã đích thân đi kiểm tra xem trường sơ trung cũ và bạn bè cô có ổn không.[2] Dù chỉ ở lại có ba ngày, cô đã nấu rất nhiều thức ăn cho cha mẹ, được làm từ các loại ra ở chính vườn cô trồng, chẳng hạn như cà tím và cà chua.[2]

Biên kịch kiêm tiểu thuyết gia Wada Ryō là bạn học thời tiểu học và sơ trung của Ayase.[3] Năm 2014, trong cuộc trò chuyện với Wada, Ayase chia sẻ: "Khi trở lại Hiroshima, tôi làm nông với hai tay ôm má, và tôi đã đem lá ngắn của rau mizuna và lá quanh cọng rau chân vịt đi cân. Tôi thích cắt bỏ cuống, cắt rẽ thành từng đoạn ngắn rồi xếp chúng cho nhô lên ở giữa, kế đến cho vào túi và lấy nhãn dán kín".[3]

Rắc rối trong đầu tư tài chính

sửa

Năm 2021, nhật báo Jojo Seven đưa tin rằng: "Ayase đang dính líu tới rắc rối lớn về đầu tư tài chính".[31][32] Một nhân viên tư vấn thuế chăm sóc gia đình đã nói với mẹ Ayase: "Ở thời đại lãi suất thấp này, để tiền mặt trong ngân hàng thật lãng phí. Sao bà không thử đầu tư xem?" Ông đề xuất quản lý tài sản và một sản phẩm đầu tư với lãi suất 3%/tháng, do nhóm đầu tư gồm ba người ở độ tuổi ngoài 30 với ông B đứng đầu.[31][32] Mẹ Ayase (giám đốc công ty đại diện tư nhân của cô) đã nghe theo lời người này và trích 100 triệu yên tiền của công ty để đầu tư.[32]

Tháng 5 năm 2021, cổ tức trả hàng tháng đã bị hoãn.[32] Các nhà đầu tư được thông báo rằng: "Tài khoản của ông B đã bị đóng băng do nghi ngờ rửa tiền và họ không thể rút tiền".[31][32] Cuối tháng 7, sau khi các khoản thanh toán lãi bị trì hoãn và xuất hiện dấu hiệu gian lận, Ayase đã có một bữa tối kéo dài ba tiếng đồng hồ với một nhân viên tư vấn thuế - người đã hỗ trợ Ayase trong thời gian dài và là con trai của nhân viên tư vấn thuế, nhằm bàn bạc và yêu cầu hoàn lại tiền.[31] Ayase đã nhíu mày tỏ ra bực bội trong buổi gặp mặt, cô rất bực vì mẹ cô và những người lớn tuổi - vốn chẳng quan tâm gì đến đầu tư - lại tham gia vụ đầu tư này.[32]

Ngày 9 tháng 11 năm 2022, Tổ cảnh sát điều tra của Sở cảnh sát tỉnh Hiroshima và Sở cảnh sát Saeki đã bắt giữ một người đàn ông thất nghiệp (39 tuổi) ở Asakasa, thành phố Fukuoka vì cáo buộc lấy một lượng tiền mặt lớn trái phép. Bốn nghi phạm (bao gồm một nhân viên tư vấn thuế 74 tuổi) đã bị bắt tại Higashihakushimacho, khu Naka, Hiroshima vì bị tình nghi vi phạm Luật đầu tư (Cấm gửi tiền).[33]

Sức khỏe

sửa

Trong lúc ghi hình cho bộ phim Boku no Kanojo wa Saibōgu, Ayase đã gặp tai nạn gãy mũi.[34] Ngày 31 tháng 8 năm 2021, Ayase thông báo trên Twitter và Instagram rằng cô đã dương tính với biến thể Delta SARS-CoV-2. Dù ban đầu hồi phục tại nhà, song cô đã phải nhập viện sau khi phát hiện có những triệu chứng của viêm phổi.[35][36] Sau đó, tình hình sức khỏe của cô đã ổn định và được xuất viện sớm.[37]

Hoạt động từ thiện

sửa

Sau hậu quả của vụ động đất và sóng thần Tōhoku và cả thảm họa hạt nhân Fukushima (2011), Ayase đã thủ vai nhân vật chính Yae (Yamamoto) Niijima (một người tộc Aizu) trong bộ phim truyền hình taiga Yae no Sakura (2013) của NHK nhằm phản ánh về hai thảm kịch kể trên; cô còn tích cực đi hỗ trợ các khu vực bị thiên tai tác động, chủ yếu ở tỉnh Fukushima. Tại chương trình Kouhaku Uta Gassen 2013 mà cô đảm nhận vai trò MC, Ayase đã thể hiện bài hát "Hana wa Saku" nhằm cổ động khắc phục hậu quả của vụ động đất,[38] và vào năm 2014, trong phóng sự "Fukushima ni Koishite" được phát sóng trên NHK, Ayase đã ghé thăm nhiều nơi ở tỉnh Fukushima và gặp gỡ người dân địa phương. Kể từ năm 2014, Ayase tiếp tục tham gia lễ rước công khai của tộc Aizu, được tổ chức thường niên với lễ diễu hành khắp thành phố Aizuwakamatsu. Thậm chí vào năm 2020, khi lễ rước ngoài đường bị hủy do đại dịch COVID-19 lây lan, cô vẫn tham gia sự kiện được tổ chức ở trong nhà, đánh dấu năm thứ bảy liên tiếp góp mặt. Năm 2021, Hiệp hội lễ hội Aizu - đơn vị tổ chức sự kiện đã quyết định không mời Ayase trong thời gian dãn cách vì dịch.[39] Năm 2022, Ayase đã xuất hiện tại lễ diễu hành của tộc Aizu - được tái tổ chức với quy mô thường niên, đánh dấu lần thứ bảy sau ba năm cô mới góp mặt ở sự kiện này.[40][41]

Hình ảnh của công chúng

sửa

The Japan Times ví Ayase Haruka là "phiên bản Nhật của Anne Hathaway".[42] Cô thường xuyên được người hâm mộ bầu chọn trong các danh sách như "Top 10 sao nữ được yêu thích nhất", "Top 10 nghệ sĩ có làn da đẹp nhất", hay "Top 10 gương mặt được khát khao nhất".[43][44] Cô cũng được xem là nữ diễn viên có mức thù lao cao nhất trong giới giải trí Nhật Bản. Năm 2013, cô được bình chọn xếp thứ hai trong danh sách "Những nữ nghệ sĩ được đàn ông muốn hẹn hò nhất" do trang Oricon Style công bố. Tính đến năm 2016, cô từng nắm giữ vị trí quán quân trong danh sách "Top 30 nữ diễn viên quyền lực nhất" của tạp chí Nikkei trong bốn năm liên tiếp.[43][45] Năm 2020, Ayase dẫn đầu danh sách "10 sao nữ hình thể gợi cảm nhất" do tạp chí Shūkan Bunshun bình chọn.[36]

Ayase là đại diện phát ngôn cho nhiều nhãn hàng sản phẩm ở Nhật Bản,[46] xuất hiện trong nhiều quảng cáo cho các thương hiệu tiêu dùng lớn như Coca-Cola,[47] SK-II[48]KFC.[49]

Danh sách phim

sửa

Danh sách đĩa nhạc

sửa

Đĩa đơn

sửa
Năm Tên đĩa đơn Ngày phát hành Vị trí xếp hạng
2006 "Period" (ピリオド Piriodo?) 24 tháng 3 năm 2006[50] 8
"Kōsaten Days" (交差点days?) 13 tháng 9 năm 2006[9] 8
2007 "Hikōkigumo" (飛行機雲?) 5 tháng 12 năm 2007[10] 23
2010 "Māgaretto" (マーガレット?) 11 tháng 8 năm 2010[11] 10

Đề cử và giải thưởng

sửa
Năm Giải Hạng mục Tác phẩm được đề cử Kết quả Chú thích
2007 Giải Elan d'or lần thứ 31 Diễn viên mới của năm Chính cô Đoạt giải [51]
2008 Giải điện ảnh Nikkan Sports lần thứ 21 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Boku no Kanojo wa Saibōgu, Ichi, Happy Flight Đoạt giải [52]
2009 Giải Hashida lần thứ 18 Diễn viên mới của năm Jin Đoạt giải [53]
Giải Blue Ribbon lần thứ 52 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Oppai Volleyball Đoạt giải [54]
Giải Điện ảnh Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 33 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử [55]
2015 Giải Nikkan Sports Drama Grand Prix lần thứ 18 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Kyō wa Kaisha Yasumimasu Đoạt giải [56]
Liên hoan phim Yokohama lần thứ 37 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Umimachi Diary Đoạt giải [57]
Giải Điện ảnh Hochi lần thứ 40 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải điện ảnh Nikkan Sports lần thứ 28 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải
2016 Giải Blue Ribbon lần thứ 58 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử
Giải Điện ảnh Mainichi lần thứ 70 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải [58]
Giải Điện ảnh Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 39 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử [59]
Giải Điện ảnh châu Á lần thứ 10 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử [60]
Giải Điện ảnh Hochi lần thứ 41 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Kōdai-ke no Hitobito Đề cử
2019 Giải Nikkan Sports Drama Grand Prix lần thứ 22 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Gibo to Musume no Blues Đoạt giải [61]
2021 Giải Nikkan Sports Drama Grand Prix lần thứ 24 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Tengoku to Jigoku: Psychona Futari Đoạt giải [62]
Giải Tokyo Drama lần thứ 14 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đoạt giải [63]
2023 Giải Điện ảnh Hochi lần thứ 48 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất The Legend and ButterflyRevolver Lily Đoạt giải [23]
2024 Giải Blue Ribbon lần thứ 66 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Revolver Lily Đề cử [64]
Giải Điện ảnh Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 47 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Đề cử [65]
Giải Viện Hàn lâm truyền hình Nhật Bản
Năm Mùa Hạng mục Tác phẩm được đề cử Kết quả Chú thích
2004 Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Sekai no Chūshin de, Ai o Sakebu Đoạt giải [66]
2006 Đông Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Byakuyakō Đoạt giải [67]
2009 Thu Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Jin Đoạt giải
2010 Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Hotaru no Hikari: It's Only a Little Light In My Life Đoạt giải
2011 Xuân Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất Jin 2 Đoạt giải
2014 Thu Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Kyō wa Kaisha Yasumimasu Đoạt giải
2017 Thu Nữ diễn viên chính xuất sắc nhất Caution, Hazardous Wife Đoạt giải

Chú thích

sửa
  1. ^ a b c “綾瀬はるか「世界平和」の夢にこめた「祖母との約束」” [Lời hứa của bà Ayase Haruka trong giấc mơ về 'hòa bình thế giới']. Josei Jishin [女性自身] (bằng tiếng Nhật). 光文社. 15 tháng 2 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  2. ^ a b c “綾瀬はるか 広島帰省中に土砂崩れ発生し母校や友の安否確認” [Ayase Haruka xác nhận trường cũ và bạn bè cô an toàn sau vụ sạt lở đất ở chuyến về thăm nhà của cô] (bằng tiếng Nhật). NEWSポストセブン. 28 tháng 8 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  3. ^ a b c “綾瀬はるか 実家ではほっかむりして農作業 腕前はプロ級” [Ayase Haruka lao động nhàn nhã ở nhà bố mẹ, song kỹ năng vẫn mức chuyên nghiệp] (bằng tiếng Nhật). Deirī Shinchō [デイリー新潮]. 25 tháng 5 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2023.
  4. ^ “『ホリプロTSC』愛媛の中2・山崎玲奈さんがGP「映画やドラマに出られる女優さんになりたいです!」” [Yamazaki Rena của 'Horipro TSC', học sinh sơ trung năm hai từ Ehime nói: 'Em muốn trở thành diễn viên đóng được cả phim điện ảnh và truyền hình'] (bằng tiếng Nhật). ORICON NEWS. 12 tháng 12 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  5. ^ “実は元アイドルと知って驚いた芸能人ランキング” [Xếp hạng người nổi tiếng tỏ ra bất ngờ khi biết thực ra họ từng là thần tượng] (bằng tiếng Nhật). zakzak. 28 tháng 7 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  6. ^ “自信がなくても、「よーい、どん」で走り出したら全力で ――綾瀬はるか流・女優の「続け方」” [Ngay cả khi không tự tin, bạn hãy cứ 'Được rồi, tiến lên' và bắt đầu dốc sức chạy hết mình - 'Cách tiếp tục theo đuổi' nghề diễn viên của Ayase Haruka]. リクナビNEXTジャーナル (bằng tiếng Nhật). Rikurū Tokyaria [リクルートキャリア]. 9 tháng 7 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2024.
  7. ^ “綾瀬 はるか(あやせ・はるか)” [Ayase Haruka]. SANSPO.COM (bằng tiếng Nhật). Sankei Shimbun [産経新聞社]. 28 tháng 2 năm 2001. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2001. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  8. ^ “綾瀬はるか初のシングル"ピリオド"に小林武史、持田香織(Every Little Thing)参加” [Kobayashi Takeshi và Mochida Kaori (Every Little Thing) tham gia đĩa đơn 'Period' của Ayase Haruka]. bounce (bằng tiếng Nhật). Tower Records [タワーレコード]. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  9. ^ a b “Ayase Haruka 交差点days” [Ayase Haruka Kōsaten Days]. jvcmusic.co (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  10. ^ a b “飛行機雲” [Hikōkigumo]. jvcmusic.co.jp (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  11. ^ a b “綾瀬はるか、新曲「マーガレット」の透明感溢れるミュージックビデオが解禁” [MV trong sáng ở bài hát mới 'Margaret' của Ayase Haruka đã được phát hành]. Bark.jp (bằng tiếng Nhật). 22 tháng 7 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  12. ^ “紅白司会は綾瀬はるかと櫻井翔 総合は内村光良” [Các MC của Kouhaku là Ayase Haruka và Sakurai Sho, người dẫn chính là Uchimura Mitsuyoshi] (bằng tiếng Nhật). Nikkan Sport [日刊スポーツ]. 18 tháng 10 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  13. ^ a b c “綾瀬 はるか” [Ayase Haruka] (bằng tiếng Nhật). Tarento Dētabanku [タレントデータバンク]. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  14. ^ クメピポ! 絶対あいたい1001人 (bằng tiếng Nhật). Truyền hình TBS.
  15. ^ “天然だけどスポーツ万能!好感度No.1の大人可愛い30代女優・綾瀬はるかのおすすめ映画6選!” [Diễn tự nhiên nhưng vẫn đa tài! Gợi ý sáu phim của Ayase Haruka, nữ diễn viên trưởng thành đáng yêu nhất ở độ tuổi ngoài 30 với điểm số yêu thích nhất]. ガジェット通信 (bằng tiếng Nhật). Tōkyō Sangyō Shinbun-sha [東京産業新聞社]. 15 tháng 6 năm 2019. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2020.
  16. ^ “綾瀬はるか大河主演! 幕末のジャンヌダルク” [Bộ taiga có sự tham gia của Ayase Haruka! Jeanne d'Arc ở cuối thời Edo]. デイリースポーツオンライン (bằng tiếng Nhật). Daily Sports/Kobe Shimbunsha [デイリースポーツ/神戸新聞社]. 23 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  17. ^ “是枝監督「海街diary」カンヌ出品、4作目のコンペ参加” [Phim 'Umimachi Diary' của Kore-eda được nộp tranh giải ở Cannes, là phim thứ tư của ông đi tranh giải] (bằng tiếng Nhật). Sponichi Annex. 17 tháng 4 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2015.
  18. ^ “綾瀬はるか・長澤まさみ・夏帆・広瀬すず、カンヌで美の競演!レッドカーペットを彩る!【第68回カンヌ国際映画祭】” [Ayase Haruka, Nagasawa Masami, Kaho, Hirose Suzu - dàn mỹ nhân tại Cannes! Nhuộm màu thảm đỏ [Liên hoan phim Cannes lần thứ 68]] (bằng tiếng Nhật). Cinema Today [シネマトゥデイ]. 15 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  19. ^ “精霊の守り人:原作者が語る"大河ファンタジー" 綾瀬はるかは「読めない役者さん」” ['Seirei no Moribito': 'Bộ taiga kỳ ảo được kể bởi tác giả nguyên tác, Ayase Haruka là một 'diễn viên khó đoán'] (bằng tiếng Nhật). MANTAN WEB. 19 tháng 3 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2020.
  20. ^ “綾瀬はるか NHK新ドラマ「精霊の守り人」殺陣シーンで自慢のボディが…” [Ayase Haruka khoe thân hình kiêu hãnh ở cảnh đấu kiếm trong tác phẩm truyền hình mới 'Seirei no Moribito' của NHK]. アサ芸プラス (bằng tiếng Nhật). Tokuma Shoten [徳間書店]. 12 tháng 3 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2020.
  21. ^ “綾瀬はるか、女用心棒を3年間演じて「性格が強くたくましくなりました!」” [Sau khi đóng vai nữ vệ sĩ trong ba năm, Ayase Haruka cho hay: 'Cá tính của tôi ngày một trở nên mạnh mẽ hơn']. マイナビニュース (bằng tiếng Nhật). Mainabi [マイナビ]. 13 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  22. ^ “大泉洋、初共演の綾瀬はるかは「芝居は完璧なんだけど、ほどよくNGを出す、僕のせりふを…」” [Ayase Haruka trong lần đầu đóng chung với bạn diễn Oizumi Hiroshi cho biết: 'Diễn xuất rất hoàn hảo, song thoại của tôi chỉ có lượng NG vừa phải...'] (bằng tiếng Nhật). Nikkan Sports [日刊スポーツ]. 2 tháng 4 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2022.
  23. ^ a b “「月」が報知映画賞の作品賞に、横浜流星・綾瀬はるか・磯村勇斗・二階堂ふみも受賞” ['Tsuki' giành giải phim hay nhất tại lễ trao giải phim Hochi, cùng các người thắng giải khác là Yokohama Ryusei, Ayase Haruka, Isomura Hayato và Nikaido Fumi]. 映画ナタリー (bằng tiếng Nhật). Natāsha [ナターシャ]. 28 tháng 11 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  24. ^ “レコード大賞で土屋太鳳が司会に。じゃあ歴代の女性司会って?” [Tsuchiya Tao sẽ là MC của Record Awards. Vậy thế bạn dẫn MC nữ là ai?] (bằng tiếng Nhật). QUIZ JAPAN. 9 tháng 12 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  25. ^ “綾瀬はるか、4年ぶり『紅白』紅組司会で「影武者のように頑張る」” [Ayase Haruka dẫn đội đỏ của 'Kohaku' lần đầu tiên sau bốn năm và 'làm hết sức mình như một Kagemusha']. ORICON NEWS (bằng tiếng Nhật). oricon ME. 28 tháng 10 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2024.
  26. ^ "令和最初"の『紅白』総合司会は内村光良紅組は綾瀬はるか、白組は櫻井翔” [MC chung của 'Kohaku' thời Lệnh Hòa đầu tiên là Uchimura Mitsuyoshi, Ayase Haruka dẫn đội đỏ, còn Sakurai Shō dẫn đội trắng]. Oricon News (bằng tiếng Nhật). 18 tháng 10 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2024.
  27. ^ “3月24日生まれの芸能人は、走る姿も美しい人気のベテラン女優!【今日は誰の誕生日?】” [Người nổi tiếng sinh vào ngày 24 tháng 3 là một nữ diễn viên kỳ cựu danh tiếng và có dáng chạy đẹp! [Ai có ngày sinh vào hôm nay vậy?]] (bằng tiếng Nhật). Model Press [モデルプレス]. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  28. ^ Hanamaru Market (bằng tiếng Nhật). TBS.
  29. ^ Asaichi (bằng tiếng Nhật). NHK総合テレビ.
  30. ^ “綾瀬はるか、スパイ容疑で逮捕!?” [Ayase Haruka bị bắt giữ vì tình nghi là gián điệp?] (bằng tiếng Nhật). Sankei MSN. 8 tháng 11 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  31. ^ a b c d “綾瀬はるかに1億円投資トラブル発覚! 顧問税理士の"広告塔"利用に信頼回復必至” [Phát hiện khoản đầu tư rắc rối 100 triệu yên của Ayase Haruka! Niềm tin là tất yếu vì sử dụng kế toán tư vấn thuế làm 'tháp quảng cáo'] (bằng tiếng Nhật). Nikkan Gendai DIGITAL [日刊ゲンダイDIGITAL]. 16 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  32. ^ a b c d e f “綾瀬はるか「返して!」激怒 母親が1億円投資トラブルに巻き込まれる” [Ayase Haruka: 'Trả tiền đây', giận giữ khi mẹ cô dính vào rắc rối đầu tư 100 triệu yên] (bằng tiếng Nhật). NEWS Post Seven [NEWSポストセブン]. 15 tháng 9 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2023.
  33. ^ “元本保証うたい多額集金か 税理士ら4人逮捕、広島県警 出資法違反疑い【動画】” [Sở cảnh sát tỉnh Hiroshima bắt giữ bốn người, kể cả kế toán viên thuế, vì tội thu một lượng tiền lớn có bảo lãnh gốc [Video]] (bằng tiếng Nhật). China News [中国新聞]. 9 tháng 11 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2023.
  34. ^ “『僕の彼女はサイボーグ』綾瀬はるか 単独インタビュー” [Phỏng vấn với Ayase Haruka từ phim 'Boku no Kanojo wa Saibōgu'] (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  35. ^ “綾瀬はるかコロナ感染 26日陽性反応、自宅療養も肺炎の症状で入院 - 芸能 : 日刊スポーツ” [Haruka Ayase dương tính với corona vào ngày 26, chữa trị tại nhà song phải nhập viện với triệu chứng viêm phổi] (bằng tiếng Nhật). Nikkan Sports. 31 tháng 8 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  36. ^ a b Như Anh (1 tháng 9 năm 2021). “Minh tinh Nhật trở nặng khi mắc Covid-19”. VnExpress. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 9 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  37. ^ Hải Đường (1 tháng 9 năm 2021). “Nhiều nghệ sĩ nổi tiếng Nhật Bản nhiễm COVID-19, Ayase Haruka phải nhập viện vì viêm phổi”. Hoa Học Trò. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  38. ^ “【紅白歌合戦ライブ】(7) かみまくり綾瀬はるか でも涙の「花は咲く」で場内感動” [[Kouhaku Uta Gassen Live] (7) Bài hát 'Hana wa Saku' rơi nước mắt của Ayase Haru làm động lòng khán giả] (bằng tiếng Nhật). Sankei News [産経ニュース]. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2024.
  39. ^ “2年ぶりに会津藩公行列 松平家中心、規模を縮小” [Lễ rước trước công chúng của tộc Aizu lần đầu tiên sau hai năm, tập trung vào gia đình Matsudaira]. Kahoku Shimpo Online News [河北新報オンラインニュース] (bằng tiếng Nhật). 20 tháng 9 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2022.
  40. ^ “綾瀬はるかさん「うれしいなし」 会津藩公行列3年ぶり例年規模で開催” [Ayase Haruka: Tôi hạnh phúc, lễ diễu hành Aizu trước công chúng được tổ chức lần đầu tiên sau ba năm, với quy mô thường niên]. Kahoku Shimpo Online News [河北新報オンラインニュース] (bằng tiếng Nhật). 24 tháng 9 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2023.
  41. ^ “綾瀬はるか 八重ふん装で「うれしいなし!」 「会津藩公行列」に特別出演” [Ayase Haruka có màn xuất hiện đặc biệt trong lốt trang phục của Yae ở các phim 'Ureshī nashi' và 'Lễ diễu hành công chúng của Aizu]. Daily Sports online [デイリースポーツ online] (bằng tiếng Nhật). 株式会社デイリースポーツ. 24 tháng 9 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2022.
  42. ^ Schilling, Mark (25 tháng 1 năm 2017). 'Honnouji Hotel': Drama on the wrong side of history”. The Japan Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2020.
  43. ^ a b CTV (25 tháng 9 năm 2022). 'Nữ thần quốc dân' Nhật Bản: Từng là cô gái gặt lúa gây sốt, giờ lột xác nóng bỏng khiến 'giáo sư đại học' si mê”. Phụ nữ & Pháp luật. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  44. ^ “Nữ diễn viên đình đám Nhật Bản sở hữu làn da căng mướt dù đã U35”. Phụ Nữ Today. 17 tháng 8 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  45. ^ Tiểu Nhi (28 tháng 8 năm 2023). 'Nữ thần gặt lúa' được trả lương cao nhất Nhật Bản giờ ra sao?”. Đời sống & Pháp luật. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  46. ^ Blecken, David (18 tháng 1 năm 2018). “These were Japan's most used celebrity endorsers in 2017” (bằng tiếng Anh). Campaign Asia. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  47. ^ K., Ben (7 tháng 6 năm 2019). “Coca-Cola Japan kicks off first summer of Reiwa with Coca-Cola Clear Lime” (bằng tiếng Anh). Japan Today. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  48. ^ Fernandez, Annabelle (11 tháng 11 năm 2019). “Watch Behati Prinsloo Levine, Haruka Ayase, And Leah Dou Give The SK-II Story A New Spin” (bằng tiếng Anh). Harper's Bazaar Singapore. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  49. ^ Green, Scott (29 tháng 5 năm 2012). “Haruka Ayase Cosplays as KFC's Colonel Sanders for Press Event”. Crunchyroll (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  50. ^ “Ayase Haruka - Period”. jvcmusic.co (bằng tiếng Nhật). Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  51. ^ “エランドール賞歴代受賞者一覧” [Danh sách người thắng giải Elan d'or] (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội nhà sản xuất Nippon. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  52. ^ “第21回日刊スポーツ映画大賞』主演男優賞をSMAP・中居正広、主演女優賞を綾瀬はるかが受賞” [Giải điện ảnh Nikkan Sports lần thứ 21: Nakai Masahiro của SMAP giành giải nam diễn viên chính xuất sắc nhất, còn Ayase Haruka đoạt giải nữ diễn viên chính xuất sắc nhất] (bằng tiếng Nhật). Oricon News. 28 tháng 12 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  53. ^ “ドラマ『JIN-仁-』が『橋田賞』受賞 共演の大沢&綾瀬も個人賞に輝く” [Phim truyền hình Jin giành 'giải Hashida', còn Osawa và Ayase cũng đoạt giải cá nhân] (bằng tiếng Nhật). Oricon News. 10 tháng 5 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2015.
  54. ^ “酒の飲みすぎで痛風になった」鶴瓶、三國連太郎から「2時間毎日歩きなさい」” [Tsurube: 'Tôi bị gút do uống quá nhiều rượu', chế độ 'đi bộ hai giờ mỗi ngày' của Mikuni Rentaro] (bằng tiếng Nhật). Oricon News. 16 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  55. ^ “第33回日本アカデミー賞優秀作品” [Giải thưởng Điện ảnh Viện Hàn lâm Nhật Bản lần thứ 33] (bằng tiếng Nhật). Hiệp hội giải Viện Hàn lâm Nhật Bản. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  56. ^ “綾瀬はるか「取ったどぉ~」ドラマGP主演女優賞” [Giải nữ diễn viên chính xuất sắc nhất thuộc về Ayase Haruka với tác phẩm 'Tottadoo'] (bằng tiếng Nhật). Nikkan Sports News. 4 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  57. ^ “海街diary」が5冠、「お盆の弟」が4冠” ['Umimachi Diary' đoạt 5 giải, cò 'Obon no Brother' thắng 4 giải.] (bằng tiếng Nhật). Nikkan Sports News. 5 tháng 12 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  58. ^ “毎日映画コンクール 大賞に橋口監督の「恋人たち」” ['Koibito-tachi' của đạo diễn Hashiguchi thắng giải lớn] (bằng tiếng Nhật). Mainichi Shimbun. 21 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 6 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  59. ^ “日本アカデミー賞優秀賞発表『海街diary』が最多12部門受賞” [Công bố giải thưởng Viện Hàn lâm Nhật Bản: 'Umimachi Diary' giành nhiều chiến thắng nhất ở 12 hạng mục] (bằng tiếng Nhật). Oricon. 18 tháng 1 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2016.
  60. ^ “10th AFA Nominees and Winners” (bằng tiếng Anh). Giải thưởng điện ảnh châu Á. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  61. ^ “綾瀬はるか「義母と娘の-」ドラマGP主演女優賞” [Ayase Haruka trong phim 'Gibo to Musume no Blues' giành giải GP cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất] (bằng tiếng Nhật). Nikkan Sports. 30 tháng 4 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  62. ^ “2020年度ドラマGP年間大賞発表” [Công bố giải Grand Prize - GP thường niên năm 2020] (bằng tiếng Nhật). Nikkan Sports. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  63. ^ “東京ドラマアウォード:「俺の家の話」が連ドラGP&3冠「天国と地獄~サイコな2人~」も2冠でTBS際立つ” [Giải Tokyo Drama: 'Ore no Ie no Hanashi' thắng giải Grand Prix cho tác phẩm truyền hình hay nhất cùng ba chiến thắng nữa, kế đến là 'Tengoku to Jigoku: Psychona Futari' của TBS với hai chiến thắng]. Manta-web (bằng tiếng Nhật). 27 tháng 10 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  64. ^ “「エゴイスト」「月」が作品賞など最多5部門に選出 「第66回ブルーリボン賞」各部門候補決まる” ['Egoist' và 'Tsuki' tranh giải ở năm hạng mục, tính cả Phim hay nhất, các đề cử ở từng hạng mục của giải Blue Ribbon đã được chốt] (bằng tiếng Nhật). Chunichi Sports. 4 tháng 1 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  65. ^ “『第47回 日本アカデミー賞』受賞者・作品発表 授賞式司会は羽鳥慎一、岸井ゆきの【コメント全文】” [Công bố các tác phẩm và người thắng cử tại giải Điện ảnh Viện Hàn lâm Nhật Bản, chương trình được dẫn bởi Hatori Shinichi và Kishii Yukino [Đầy đủ bình luận]] (bằng tiếng Nhật). Oricon. 25 tháng 1 năm 2024. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  66. ^ “ザテレビジョン ドラマアカデミー賞” [Giải Viện Hàn lâm truyền hình Nhật Bản] (bằng tiếng Nhật). The Television. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.
  67. ^ “ザテレビジョン ドラマアカデミー賞” [Giải Viện Hàn lâm Truyền hình Nhật Bản] (bằng tiếng Nhật). The Television. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2024.


Liên kết ngoài

sửa