Mỵ Ê (chữ Hán: 媚醯), không rõ họ gì, là một Vương phi[1] của Chiêm Thành vào thế kỷ 11. Bà là vợ hoặc thiếp của Quốc vương Chiêm ThànhSạ Đẩu.

Mỵ Ê
Thông tin cá nhân
Giới tínhnữ
Gia quyến
Phối ngẫu
Jaya Sinhavarman II
Quốc tịchChăm Pa

Câu chuyện

sửa

Chép trong Toàn thư

sửa

Câu chuyện về Mỵ Ê được ghi rất đơn giản trong Đại Việt sử ký toàn thư. Căn cứ theo Toàn thư, Chiêm Thành vương khi ấy có tên chữ Hán là Sạ Đẩu (乍斗), tiếng Phạn là vương hiệu "Jaya Sinhavarman II", là vị quốc vương cuối cùng của triều đại thứ VII làm chủ Indrapura. Từ khi lên ngôi, Sạ Đẩu bất hòa với nhà Lý dưới thời Lý Thái Tông, do đó Thái Tông từng ra chỉ: "Tiên đế mất đi, đến nay đã 16 năm rồi, mà Chiêm Thành chưa từng sai một sứ giả nào sang là cớ gì? Uy đức của trẫm không đến họ chăng? Hay là họ cậy có núi sông hiểm trở chăng?". Các quan đáp: "Bọn thần cho rằng đó là vì đức của bệ hạ tuy có đến nhưng uy thì chưa rộng. Sao thế? Vì từ khi bệ hạ lên ngôi đến giờ, họ trái mệnh không đến chầu, bệ hạ chỉ ban ơn để vỗ về, chưa từng ra oai dùng võ để đánh phạt, đó không phải là cách làm cho người ta sợ oai. Bọn thần e rằng các chư hầu khác họ trong nước đều như Chiêm Thành cả, há chỉ riêng người Chiêm mà thôi đâu"[2].

Vào năm Minh Đạo thứ 3 (1044), Lý Thái Tông tiến đánh Chiêm Thành. Trong khi đó triều chính Chiêm có sự bội phản, tướng Chiêm là Quách Gia Dĩ (郭加彛) đã chém chết chúa Sạ Đẩu rồi đầu hàng. Quân Đại Cồ Việt chiếm được thành Phật Thệ, bắt hàng trăm cung nữ, ca kỹ và nhạc công mang về, trong đó có cả Mỵ Ê. Đến hành cung tại Lý Nhân, Lý Thái Tông sai quan trung sứ triệu bà sang hầu ngủ cho nhà Vua, thì Mỵ Ê lấy chiên trắng quấn quanh mình rồi nhảy xuống sông Châu Giang mà chết. Lý Thái Tông khen bà trinh liệt, phong làm Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân (協正佑善夫人).

Sử thần Ngô Sĩ Liên khen tặng Mỵ Ê như sau:

Việt điện u linh tập

sửa

Sách Việt điện u linh tập cũng có ghi câu chuyện này của Mỵ Ê, với một vài chi tiết hơn so với Toàn thư ghi nhận. Theo U linh tập, truyện của Mỵ Ê được ghi với tên là Hiệp Chính Hựu Thiện Trinh Liệt Chân Mãnh phu nhân (協正佑善貞烈真猛夫人):

Tuy nhiên, hiện nay do qua quá nhiều giai đoạn lịch sử, không xác định được cụ thể ngôi đền này nằm tại vị trí nào dọc sông Châu Giang.

Trong văn học

sửa

Nhà thơ Tản Đà có làm bài thơ Tâm sự nàng Mỵ Ê nói về bà:

Châu giang một giải sông dài,
Thuyền ai than thở, một người cung phi!
Đồ Bàn thành phá hủy,
Ngọa Phật tháp thiên di.
Thành tan, tháp đổ
Chàng tử biệt,
Thiếp sinh ly.
Sinh ký đau lòng kẻ tử quy!
Sóng bạc ngàn trùng
Âm dương cách trở
Chiên hồng một tấm,
Phu thê xướng tùy.
Ôi mây! Ôi nước! Ôi trời!
Đũa ngọc, mâm vàng, giọt lụy rơi.
Nước sông trong đục,
Lệ thiếp đầy vơi
Bể bể, dâu dâu, khóc nỗi đời!
Trời ơi! Nước hỡi! Mây hời!
Nước chảy, mây bay, trời ở lại,
Để thiếp theo chồng mấy dặm khơi!...

Ngoài ra còn có rất nhiều tác phẩm khác của các nhà thơ như Lê Thánh Tông, Nguyễn Nhược Pháp, Lý Đông A...

Ghi chú

sửa
  1. ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư
  2. ^ Trích Đại Việt sử ký toàn thư, Lý Thái Tông bản kỷ.
  3. ^ Khái niệm Vợ hầu là tỳ thiếp, còn dưới cả hàng thiếp thông thường theo cách nói của người Việt (xem bài Vợ). Do đó có quan niệm Mỵ Ê chỉ là thiếp hầu, không phải là vợ, càng không phải là hàng thiếp chính thức.
  4. ^ Theo quan niệm Hoa Hạ khi ấy, không theo lễ của nhà Chu thì đều là man di nhung địch, mà các nước tự nhận có văn hóa đều xưng hai chữ "Trung Quốc" hoặc "Trung Hoa". Khi đó Việt Nam cùng Nhật Bản, Hàn Quốc đều tự xưng mình như vậy, tỏ ý ngang hàng Trung Quốc đại lục.

Tham khảo

sửa