Saif al-Adel (tiếng Ả Rập: سيف العدل, có nghĩa là thanh kiếm của công lý) là bí danh của một thành viên cấp cao người Ai Cập của al-Qaeda. Cùng với Saeed al-Masri và Mahfouz Ould al-Walid, ông được cho là đã phản đối cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 hai tháng trước khi vụ này được thực hiện[3]. Trong tháng 5 năm 2011 sau cái chết của Osama bin Laden, ông đã được báo cáo là người vừa được chọn làm thủ lĩnh tạm thời của tổ chức al-Qaeda[4].

Saif al-Adel
سيف العدل
Tiểu vương thứ 3 của Al-Qaeda
Nhậm chức
1 tháng 8 năm 2022
Tiền nhiệmAyman al-Zawahiri
Nhiệm kỳ
2 tháng 5 năm 2011 – 16 tháng 6 năm 2011
Tiền nhiệmOsama bin Laden
Kế nhiệmAyman al-Zawahiri
Thông tin cá nhân
Sinh11 tháng 4 năm 1960 hoặc 1963
(63 hoặc 60 tuổi)[1]
Tỉnh Monufia, Cộng hòa Ả Rập Thống nhất[2]
Sự nghiệp quân sự
Thuộc Ai Cập
(1976–1987)
Maktab al-Khidamat
(1988–1989)
Al-Qaeda
(1988–nay)
Quân chủng Quân đội Ai Cập
(1976–1987)

Maktab al-Khidamat
(1988–1989)

Al-Qaeda
(1988–nay)
Năm tại ngũ1976–nay
Quân hàmĐại tá
(1987)
Chỉ huy Al-Qaeda
(2001–2023)
Thủ lĩnh Al-Qaeda ngoài thực tế bị tình nghi
(2023–nay)
Tham chiến

Al-Adel là theo bản cáo trạng[5] vì tham dự vào vụ đánh bom Đại sứ quán Hoa Kỳ ở châu Phi năm 1998. Theo cáo trạng, al-Adel là một thành viên của Majlis al Shura của al-Qaeda và là thành viên của ủy ban quân sự của mình, và ông đã cung cấp huấn luyện quân sự và tình báo cho các thành viên của al-Qaeda và Ai Cập Hồi giáo Jihad tại Afghanistan, Pakistan, và Sudan, và để chống bộ tộc Somalia chống Liên Hợp Quốc[5]. Có khả năng các học viên của ông bao gồm những người Somalia trong Trậng Mogadishu đầu tiên.[6] Ông thành lập các cơ sở huấn luyện của al-Qaeda tại Ras Kamboni ở Somalia gần biên giới Kenya. Ông là một trong những chủ mưu của vụ ám sát Tổng thống Ai Cập Anwar Al Sadat, và rời đất nước năm 1988 để tham gia mujahideen trong thời kỳ đẩy lùi cuộc Liên Xô xâm lược Afghanistan[7]. Ông sau đó được cho là đã đi du lịch tới miền nam Liban cùng với Abu Talha al-Sudani, Sayful Hồi giáo al-Masri, Abu Ja `nay al-Masri, và Abu Salim al-Masri, nơi ông được đào tạo cùng với Hezbollah Al-Hejaz.[8] Trong Khartoum, Al-Adel dạy chiến binh được tuyển dụng làm thế nào để xử lý vật liệu nổ trong các phần không sử dụng của Al-Damazin Farms.

Ông kết hôn với con gái của Mustafa Hamid, và họ có năm con với nhau.

Một báo cáo của Liên Hợp Quốc năm 2023, trích dẫn thông tin tình báo của các quốc gia thành viên, kết luận rằng Saif al-Adel đã được mệnh danh là thủ lĩnh trên thực tế của al-Qaeda nhưng ông ta đã không được tuyên bố chính thức là Emir của tổ chức này do " nhạy cảm chính trị" của Chính phủ Afghanistan trong việc thừa nhận giết Ayman Al-ZawahiriKabul và những thách thức "thần học và hoạt động" do vị trí của al-Adel ở Iran.[9][10][11][12]

Tham khảo sửa

  1. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên fbiAdel
  2. ^ “Bombing of U.S. Embassies (Kenya and Tanzania | August 7, 1998) | Rewards For Justice”. rewardsforjustice.net. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2022.
  3. ^ 9/11 Commission, p. 251
  4. ^ “Egyptian Saif al-Adel now acting leader of al Qaeda, ex-militant says”. Truy cập 31 tháng 10 năm 2015.
  5. ^ a b Copy of indictment Lưu trữ 2001-11-10 tại Library of Congress Web Archives USA v. Usama bin Laden et al., Center for Nonproliferation Studies, Monterey Institute of International Studies[liên kết hỏng] Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “indictment” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  6. ^ Who's who in al-Qaeda, BBC News, ngày 19 tháng 2 năm 2003
  7. ^ "Al-Qaeda's new military chief", BBC, ngày 19 tháng 12 năm 2001
  8. ^ Hegghammer, Thomas. CTC Sentinel, Deconstructing the myth about al-Qaida adn Khobar[liên kết hỏng], February 2008
  9. ^ “Militant in Iran identified as al-Qaeda's probable new chief in U.N. report”. Washington Post (bằng tiếng Anh). ISSN 0190-8286. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2023.
  10. ^ Analysis by Tim Lister. “Al Qaeda needs a new leader after Zawahiri's killing. Its bench is thinner than it once was”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2022.
  11. ^ Bunzel, Cole (3 tháng 8 năm 2022). “Al Qaeda's Next Move:What Zawahiri's Death Means For Jihadism”. Foreign Affairs. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2022.
  12. ^ Burke, Jason (14 tháng 2 năm 2023). “Extremist thought to be in Iran is de facto new leader of al-Qaida, UN says”. The Guardian.