Thành viên:Necrocancer/Hokusai lưu trữ

Hokusai
(北斎 (ほくさい))
Katsushika Hokusai, tranh tự hoạ năm 1839
Thông tin cá nhân
Sinh
Tên khai sinh
Tokitarō
時太郎
Ngày sinh
khoảng 31 tháng 10 năm 1760
Nơi sinh
Edo (nay là Tokyo), Nhật Bản
Mất
Ngày mất
(1849-05-10)10 tháng 5, 1849 (88 tuổi)
Nơi mất
Edo (nay là Tokyo), Nhật Bản
Quốc tịchNgười Nhật
Sự nghiệp hội họa
Thể loạiTranh in ukiyo-e, manga và nghệ thuật in mộc bản
Tác phẩmSóng lừng ngoài khơi Kanagawa


Katsushika Hokusai ( (かつ) (しか) (ほく) (さい) (Cát Sức Bắc Trai)? nghe, k.31 tháng 10 năm 1760 – 10 tháng 5 năm 1849),[1] là một nghệ sĩ, họa sĩ chuyên về ukiyo-e và nhà in tranh người Nhật trong thời kỳ Edo. Ông cũng là chuyên gia hàng đầu về hội họa Trung quốc trong giai đoạn đó[2]. Sinh ra tại Edo (nay là Tokyo), Hokusai được biết đến nhiều nhất với tư cách là tác giả của loạt tranh in mộc bản Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ ( (ふが) (くさ) (じゅ) (うろ) () (けい) (Phú Nhạc tam thập lục cảnh) Fugaku Sanjūroku-kei?, k. 1831), trong đó có tác phẩm "Sóng lừng ngoài khơi Kanagawa" đã trở thành biểu tượng của Nhật Bản và được xuất bản trên bình diện quốc tế.

Hokusai sáng tác loạt tranh Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ vừa là một cách phản ánh sự bùng nổ du lịch hàng hải nội địa, vừa để đáp lại nỗi ám ảnh từ núi Phú Sĩ[3]. Loạt tranh này, cụ thể là Sóng lừng ngoài khơi KanagawaGió lành, trời trong đã đảm bảo danh tiếng của Hokusai cả ở Nhật Bản và nước ngoài. Như sử gia Richard Lane đã kết luận, "Thật vậy, nếu như có một tác phẩm tạo nên tên tuổi của Hokusai, cả ở Nhật Bản và nước ngoài, thì nhất định nó phải là loạt tranh phi thường này." [4]. Trong khi tác phẩm của Hokusai trước khi sáng tác loạt tranh này chắc chắn quan trọng, danh tiếng của ông đã được công nhận rộng rãi trước cả khi loạt tranh này xuất hiện.[5]

Niên thiếu và luyện tập nghệ thuật sửa

 
Sóng lừng ngoài khơi Kanagawa, tranh in nổi tiếng nhất của Hokusai, tranh đầu tiên trong loạt Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ
 
Cò trắng trong Những bài học nhanh với dạng vẽ đơn giản
 
Tranh người đang tắm trong Mạn hoạ Hokusai
 
Bản in đương đại của tranh in về Daruma của Hokusai năm 1817

Ngày sinh của Hokusai không rõ ràng, nhưng thường được ghi là ngày thứ 23 của tháng thứ 9 năm Hōreki thứ 10 (theo lịch cũ hoặc ngày 31 tháng 10 năm 1760) trong một gia đình thủ công ở quận Katsushika của Edo, Nhật Bản.[6] Tên thuở nhỏ của ông là Tokitarō.[1] Người ta tin rằng cha ông là nghệ nhân làm gương Nakajima Ise, người làm gương cho shogun.[1] Cha của ông không bao giờ đặt Hokusai là người thừa kế, nên có thể mẹ của ông là vợ lẽ.[6] Hokusai bắt đầu vẽ vào khoảng sáu tuổi, có lẽ là từ cha mình, người mà sản phẩm gương của ông bao gồm một bức tranh vẽ về thiết kế xung quanh chiếc gương.[6]

Hokusai được biết có ít nhất ba mươi tên gọi trong suốt cuộc đời của mình. Trong khi việc sử dụng nhiều tên là một thực tế phổ biến của các nghệ sĩ Nhật Bản thời gian đó, số lượng bút danh của ông vượt quá bất kỳ nghệ sĩ lớn nào khác của Nhật Bản. Những thay đổi về tên của Hokusai rất thường xuyên, và thường liên quan đến những thay đổi trong sản xuất và phong cách nghệ thuật của ông, chúng được sử dụng để chia nhỏ cuộc đời của ông thành các giai đoạn.[6]

Ở tuổi 12, cha ông đã gửi ông đến làm việc trong một hiệu sách và thư viện cho mượn, một loại hình tổ chức phổ biến ở các thành phố Nhật Bản, nơi sách đọc được làm từ các mộc bản được cắt là một thú giải trí phổ biến của tầng lớp trung lưu và thượng lưu.[7] Ở tuổi 14, ông đi học việc với một người thợ điêu khắc gỗ, cho đến khi 18 tuổi, khi ông tới xưởng của Katsukawa Shunshō. Shunshō là một nghệ sĩ ukiyo-e, một phong cách in và vẽ tranh từ mộc bản mà Hokusai sẽ trở thành bậc thầy, và đứng đầu phong trào gọi là môn phái Katsukawa.[1] Ukiyo-e, như được thực hành bởi các nghệ sĩ như Shunshō, tập trung vào hình ảnh của những cô gái làng chơi cao sang và các diễn viên kabuki, những người nổi tiếng ở các thành phố của Nhật Bản vào thời điểm đó.[8]

Sau một năm, Hokusai đổi tên lần đầu tiên, khi ông được thầy của mình gọi là Shunrō. Ông đã xuất bản các bản in đầu tiên của mình với tên gọi này, một loạt tranh về các diễn viên kabuki xuất bản vào năm 1779. Trong thập kỷ ông làm việc trong xưởng của Shunshō, Hokusai đã kết hôn với người vợ đầu tiên của mình, người mà rất ít người biết đến, ngoại trừ việc bà qua đời vào đầu những năm 1790. Ông kết hôn lần nữa vào năm 1797, mặc dù người vợ thứ hai này cũng qua đời sau một thời gian ngắn. Ông đã có hai con trai và ba con gái với hai người vợ, và con gái út Ei của ông, còn được gọi là Ōi, cuối cùng đã trở thành một hoạ sĩ.[8][9]

Sau sự qua đời của Shunshō vào năm 1793, Hokusai bắt đầu khám phá các phong cách nghệ thuật khác, bao gồm cả các phong cách châu Âu mà ông đã được tiếp xúc thông qua các bản khắc đồng của Pháp và Hà Lan mà ông có thể có được.[8] Ông đã sớm bị trục xuất khỏi môn phái Katsukawa bởi Shunkō, đệ tử chính của Shunshō, có thể là do các nghiên cứu tại môn phái Kanō đối địch. Sự kiện này, theo cách nói của ông, truyền cảm hứng cho bản thân ông: "Điều thực sự thúc đẩy sự phát triển phong cách nghệ thuật của tôi là sự bối rối mà tôi phải chịu đựng dưới tay Shunkō."[4]

Hokusai cũng thay đổi chủ đề tác phẩm của mình, rời bỏ những hình ảnh những cô gái làng chơi cao sang và diễn viên, vốn là những chủ đề truyền thống của ukiyo-e. Thay vào đó, tác phẩm của ông trở nên tập trung vào cảnh quan và hình ảnh cuộc sống hàng ngày của người Nhật ở nhiều cấp bậc xã hội. Sự thay đổi chủ đề này là một bước đột phá trong ukiyo-e và trong sự nghiệp của Hokusai.[8] Tranh Pháo hoa tại cầu Ryōgoku (1790) được sáng tác trong giai đoạn này của Hokusai.[10]

Đỉnh cao sự nghiệp sửa

Giai đoạn tiếp theo cho thấy sự liên hệ của Hokusai với môn phái Tawaraya và việc nhận tên "Tawaraya Sōri". Ông đã vẽ nhiều bức tranh vẽ bằng bút lông, được gọi là surimono, và minh họa cho các cuốn kyōka ehon (sách minh họa những bài thơ hài hước) trong thời gian này. Năm 1798, Hokusai truyền lại tên của mình cho một môn sinh và trở thành một nghệ sĩ độc lập, lần đầu tiên không có quan hệ với một môn phái nào, sử dụng tên Hokusai Tomisa.

Tới năm 1800, Hokusai tiếp tục phát triển việc sử dụng kỹ thuật ukiyo-e của mình cho các tranh không phải chân dung. Ông cũng đã lấy tên mà ông được biết đến nhiều nhất, Katsushika Hokusai, tên đầu ám chỉ đến một phần của Edo nơi ông sinh ra và tên thứ hai nghĩa là 'xưởng phía bắc'. Năm đó, ông xuất bản hai bộ sưu tập phong cảnh, Cảnh đẹp nổi tiếng Đông Đô (chỉ Edo) và Tám cảnh đẹp Edo. Ông cũng bắt đầu có sức thu hút các môn sinh của riêng mình, ông đã dạy tổng công 50 môn sinh trong suốt cuộc đời của mình.[8]

Ông trở nên ngày càng nổi tiếng trong thập kỷ tiếp theo, cả vì các tác phẩm nghệ thuật và tài năng tự quảng bá của ông. Trong một lễ hội ở Tokyo vào năm 1804, ông đã tạo ra một bức chân dung của đại sư Daruma được cho là dài đến 600 foot (180 m) bằng cách sử dụng một cây chổi và một cái xô đầy mực. Một câu chuyện khác kể rằng ông có mặt tại triều đình của tướng quân Ienari, được mời đến để thi tài với một nghệ sĩ khác, người đã thực hành nhiều bức vẽ với nét vẽ truyền thống hơn. Bức tranh của Hokusai, được tạo ra trước mặt Shogun, bao gồm vẽ một đường cong màu xanh trên giấy, sau đó đuổi theo nó một con gà có đôi chân đã được nhúng trong sơn màu đỏ. Ông mô tả bức tranh cho Shogun rằng đó là một cảnh quan của sông Tatsuta với những chiếc lá phong đỏ nổi trên đó, và do đó chiến thắng cuộc thi.[11]

Năm 1807, Hokusai cộng tác với nhà tiểu thuyết nổi tiếng Takizawa Bakin trong một loạt các cuốn sách minh họa. Cả hai không có được sự hòa thuận do khác biệt về mặt nghệ thuật, và sự hợp tác của họ kết thúc trong khi đang làm cuốn sách thứ tư của họ. Nhà xuất bản, được lựa chọn giữa việc giữ Hokusai hoặc Bakin lại trong dự án, đã chọn giữ lại Hokusai, nhấn mạnh tầm quan trọng của hình minh họa trong các tác phẩm in của thời kỳ này.[12]

Hokusai chú trọng đến việc sản xuất tác phẩm của mình trong các cuốn sách. Hai trường hợp được ghi chép bằng các lá thư mà ông viết cho các nhà xuất bản và những thợ khắc mộc bản liên quan đến việc sản xuất thiết kế của ông trong Toshisen Ehon, một phiên bản tiếng Nhật về tuyển tập thơ ca Trung Quốc. Hokusai viết cho nhà xuất bản sách nói rằng người thợ khắc mộc bản Egawa Tomekichi, người mà Hokusai từng làm việc và là người mà ông kính trọng, đã xa rời khỏi phong cách của Hokusai trong việc khắc một số mỏm đầu. Hokusai cũng đã viết trực tiếp cho một người thợ khắc mộc bản khác liên quan đến dự án, Sugita Kinsuke, nói rằng ông không thích phong cách của môn phái Utagawa, mà Kinsuke đã khắc đôi mắt và mũi của nhân vật theo phong cách đó, và những sửa đổi cần phải được thực hiện cho các bản in cuối cùng, tuân theo phong cách của Hokusai. Trong lá thư của ông, Hokusai bao gồm các ví dụ minh họa về cả phong cách minh họa về mắt và mũi của ông và phong cách của môn phái Utagawa. Nhà xuất bản đồng ý thực hiện những thay đổi này, ngay cả với hàng trăm bản sao của cuốn sách đã được in. Để sửa các chi tiết này, các khối mộc bản đã có sẽ được chỉnh sửa lại bằng cách sử dụng kỹ thuật Umeki. Các phần được sửa chữa sẽ được loại bỏ và một mảnh gỗ đã được chuẩn bị được chèn vào, trong đó người thợ khắc mộc bản sẽ khắc lại thiết kế đã sửa đổi. Việc sử dụng kỹ thuật Umeki có thể được phát hiện bằng các dấu ngắt nhỏ bao quanh khối được chèn vào. Các bản sao tranh in của cả bản khắc gỗ gốc và những bản sao của các bản sửa đổi được yêu cầu của Hokusai đều còn tồn tại, được in lần lượt vào năm 1833 và 1836.[13]

Năm 1811, ở tuổi 51, Hokusai đổi tên thành Taito và bước vào thời kỳ mà ông tạo ra Mạn hoạ Hokusai và nhiều loại etehon, hay các sách hướng dẫn nghệ thuật, khác nhau.[1] Những etehon này, bắt đầu vào năm 1812 với Những bài học nhanh với dạng vẽ đơn giản (Quick Lessons in Simplified Drawing), được dùng như một cách thuận tiện để kiếm tiền và thu hút nhiều môn sinh hơn. Mạn hoạ (tiếng Nhật là Manga, nghĩa là các bản vẽ ngẫu nhiên) bao gồm các nghiên cứu về phối cảnh.[14] Cuốn sách về mạn hoạ đầu tiên của Hokusai, gồm những bản phác thảo hoặc tranh biếm họa có ảnh hưởng đến dạng truyện tranh hiện đại có cùng tên sau này, đã được xuất bản năm 1814. Cùng với đó, 12 tập mạn hoạ của ông được xuất bản cho tới trước năm 1820 và ba cuốn sách được xuất bản sau khi qua đời, bao gồm hàng ngàn bản vẽ động vật, các nhân vật tôn giáo và những người thường ngày. Chúng thường có những ngụ ý hài hước và rất nổi tiếng vào thời điểm đó.[12]

Ngày 5 tháng 10 năm 1817, tại chùa Hongan-ji Nagoya Betsuin ở Nagoya, ông đã vẽ một bức Đại Daruma trên giấy, có kích thước 18x10,8 mét, gây ấn tượng với nhiều người xem. Đối với kỳ tích này, ông đã nhận được tên "Darusen" (một dạng rút ngắn của Daruma Sensei).[15][16] Mặc dù bản gốc đã bị phá hủy vào năm 1945, nhưng các bản quảng cáo từ thời điểm đó vẫn còn tồn tại và được bảo tồn tại Bảo tàng thành phố Nagoya. Dựa trên các nghiên cứu, một bản sao của bức tranh lớn được thực hiện tại một sự kiện công cộng lớn vào ngày 23 tháng 11 năm 2017 để kỷ niệm 200 năm của bức tranh, sử dụng cùng kích thước, kỹ thuật và chất liệu như bản gốc.[17][18]

Năm 1820, Hokusai lại đổi tên một lần nữa, lần này là "Iitsu", một sự thay đổi đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn mà ông đã bảo đảm danh tiếng một nghệ sĩ trên khắp Nhật Bản. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ, bao gồm cả bức tranh nổi tiếng Sóng lừng ngoài khơi Kanagawa, được sản xuất vào đầu những năm 1830. Kết quả của các nghiên cứu phối cảnh Hokusai trong Mạn hoạ có thể được nhìn thấy ở đây trong Sóng lừng ngoài khơi Kanagawa, nơi ông sử dụng những điều được xem như phối cảnh phương Tây để đại diện cho chiều sâu và khối lượng.[14] Nó đã trở nên phổ biến đến nỗi Hokusai sau đó đã thêm vào mười bản in nữa vào trong loạt tranh. Trong số các bản in nổi tiếng khác mà ông xuất bản trong thời gian này có Một chuyến tham quan thác nước các tỉnh (A Tour of the Waterfalls of the Provinces), Đại dương trí tuệ (Oceans of Wisdom) và Cảnh bất thường của cây cầu kỷ niệm ở các tỉnh (Unusual Views of Celebrated Bridges in the Provinces).[19] Ông cũng bắt đầu sáng tác một số tranh chi tiết cụ thể của các loài chim và hoa, bao gồm cả các tranh cực kỳ chi tiết như Hoa anh túc (Poppies) và Đàn gà (Flock of Chickens).[20]

Cuối đời sửa

 
Con rồng khói thoát khỏi núi Phú Sĩ (The Dragon of Smoke Escaping from Mt Fuji)

Giai đoạn tiếp theo, bắt đầu vào năm 1834, chứng kiến ​​Hokusai sáng tác với bút danh "Gakyō Rōjin Manji" (画狂老人卍 (Hoạ Cuồng Lão Nhân Vạn) "Lão già cuồng điên vì hội hoạ"?).[10] Chính tại thời điểm này, Hokusai đã sáng tác loạt tranh Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ, một loạt cảnh quan quan trọng khác.[20]

Trong phần lời bạt cho tác phẩm này, Hokusai viết:

Từ năm lên sáu, tôi đã có một niềm đam mê sao chép hình dạng của sự vật, và khi năm mươi tuổi tôi đã xuất bản nhiều bản vẽ, nhưng tất cả tranh mà tôi vẽ tới năm thứ bảy mươi của mình không có gì đáng để tính đến. Trong bảy mươi ba năm, tôi đã hiểu một phần cấu trúc của động vật, chim, côn trùng và tôm cá, và cuộc sống của cỏ cây. Và như vậy, ở tuổi tám mươi sáu tôi sẽ tiến xa hơn; ở tuổi chín mươi tôi thậm chí còn thâm nhập xa hơn vào ý nghĩa bí mật của chúng, và tới một trăm tôi có lẽ thực sự đã đạt đến mức độ kỳ diệu và thiêng liêng. Khi tôi tới tuổi một trăm mười, mỗi dấu chấm, mỗi dòng sẽ có một cuộc sống của riêng nó.[21]

Năm 1839, một đám cháy đã phá hủy xưởng của Hokusai và phần lớn công việc của ông. Trong thời gian này, sự nghiệp của ông đã bắt đầu phai mờ khi các nghệ sĩ trẻ như Andō Hiroshige ngày càng trở nên phổ biến. Nhưng Hokusai không bao giờ ngừng vẽ, và ông đã hoàn thành bức Đàn vịt dưới suối (Ducks in a Stream) ở tuổi 87.[22]

Không ngừng tìm cách để tạo ra tác phẩm tốt hơn, ông dường như đã thảng thốt kêu lên trên giường bệnh của mình, "Giá mà ông trời cho tôi thêm mười năm nữa... Chỉ cần thêm năm năm nữa, thì tôi có thể trở thành một họa sĩ thực sự." Ông qua đời vào ngày 10 tháng 5 năm 1849 (ngày thứ 18 của tháng thứ 4 năm Kaei thứ 2 theo lịch cũ), và được chôn cất tại chùa Seikyō-ji ở Tokyo (khu Taito).[1]

Shunga sửa

 
Giấc mơ người vợ ngư phu (The Dream of the Fisherman's Wife), 1814

Hokusai cũng sáng tác theo chủ đề khiêu dâm, được gọi là Shunga trong tiếng Nhật. Hầu hết tranh shunga là một thể loại của ukiyo-e, thường được thực hiện trong định dạng in mộc bản.[23] Dịch theo nghĩa đen, từ tiếng Nhật shunga có nghĩa là hình ảnh của mùa xuân; "mùa xuân".

Shunga được cả nam giới và phụ nữ thuộc mọi tầng lớp yêu thích. Những mê tín dị đoan và phong tục cũng gợi ý xoay quanh shunga; theo cùng cách mà nó được coi là một sự quyến rũ may mắn chống lại cái chết cho một samurai để mang shunga, nó được coi là một bảo vệ chống lại lửa trong kho và nhà của thương gia. Từ đó, chúng ta có thể suy ra rằng samurai, chonin và các bà nội trợ đều sở hữu shunga. Cả ba nhóm này sẽ bị tách biệt khỏi người khác giới; các samurai sống trong các doanh trại trong nhiều tháng tại một thời điểm, và chia ly tách biệt là kết quả của hệ thống sankin-kōtai và nhu cầu mua bán hàng hóa của thương nhân.[24] Các ghi chép về phụ nữ sở hữu shunga mình từ người cho mượn sách cho thấy rằng họ là người tiêu dùng của loại tranh này.[23] Đó là truyền thống để thể hiện một cô dâu với ukiyo-e miêu tả những cảnh khiêu dâm từ Truyện kể Genji. Shunga có thể đã đóng vai trò hướng dẫn tình dục cho những người con trai và con gái của các gia đình giàu có.

Tác phẩm và ảnh hưởng sửa

Hokusai đã có một sự nghiệp dài, nhưng ông sáng tác hầu hết các tác phẩm quan trọng của mình sau tuổi 60. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là loạt tranh ukiyo-e Ba mươi sáu cảnh núi Phú Sĩ, được sáng tác từ năm 1826 đến năm 1833. Nó thực ra bao gồm 46 bản in (10 trong số đó được thêm vào sau lần bán ra đầu tiên).[4] Ngoài ra, ông còn chịu trách nhiệm cho loạt tranh Một trăm cảnh núi Phú Sĩ (富嶽百景 Fugaku Hyakkei?) xuất bản năm 1834, một tác phẩm mà "thường được coi là kiệt tác trong những cuốn sách tranh phong cảnh của ông."[4] Tranh ukiyo-e của ông đã chuyển đổi hình thức nghệ thuật từ một phong cách tranh chân dung tập trung vào những cô gái làng chơi hạng sang và diễn viên nổi tiếng trong thời kỳ Edo ở các thành phố của Nhật Bản, sang một phong cách nghệ thuật rộng lớn hơn tập trung vào phong cảnh, thực vật và động vật.[8]

Cả hai lựa chọn nghệ danh và mô tả thường xuyên về núi Phú Sĩ của Hokusai đều xuất phát từ niềm tin tôn giáo của ông. Tên gọi Hokusai (北斎 (Bắc Trai)?) có nghĩa là "Xưởng (phòng) phía bắc", viết tắt của Hokushinsai (北辰際 (Bắc Thần Tế)?) hay "Xưởng sao Bắc Cực." Hokusai là một thành viên của giáo phái Phật giáo Nichiren, người nhìn thấy sao Bắc Cực liên quan đến thần linh Myōken (妙見菩薩 (Diệu Kiến Bồ Tát)?).[4] Núi Phú Sĩ có truyền thống được liên kết với cuộc sống vĩnh cửu. Tín ngưỡng này có thể được truy nguồn từ Nàng tiên trong ống tre, có một nữ thần đặt tinh hoa của sự sống trên đỉnh cao. Như Henry Smith chỉ ra, "Vì vậy từ một thời gian đầu, núi Phú Sĩ đã được xem như là nguồn gốc bí mật của sự bất tử, một truyền thống mà là trái tim của nỗi ám ảnh riêng của Hokusai với ngọn núi này."[3]

Tác phẩm lớn nhất của Hokusai là bộ sưu tập 15 tập Mạn hoạ Hokusai (北斎漫画?), một cuốn sách được đưa vào với gần 4.000 bản phác thảo được xuất bản năm 1814.[4] Những bản phác thảo này thường được coi là tiền lệ cho manga hiện đại, vì Mạn hoạ Hokusai là một tập hợp các bản phác thảo (động vật, con người, vật thể, vân vân), khác với phong cách sách truyện tranh dựa trên truyện hiện đại dựa trên truyện tranh của manga hiện đại.[4]

Tác phẩm chọn lọc sửa

Ảnh hưởng đến nghệ thuật và văn hóa sửa

Ảnh hưởng của ông cũng lan toả tới những tác phẩm đương thời phương Tây ở châu Âu thế kỷ 19, nơi có phong cách mới Art Nouveau, hoặc Jugendstil ở Đức, chịu ảnh hưởng của ông và của nghệ thuật Nhật Bản nói chung. Đây cũng là một phần của phong trào Ấn tượng lớn hơn, với những chủ đề tương tự như Hokusai xuất hiện trong Claude MonetPierre-Auguste Renoir. Theo Brooklyn Rail, "Nhiều nghệ sĩ đã thu thập các mộc bản của ông: bao gồm Degas, Gauguin, Klimt, Franz Marc, August Macke, Manetvan Gogh".[25] Motif dây buộc đầu roi (whiplash) của Hermann Obrist, hay Peitschenhieb, để minh họa cho phong trào mới, chịu ảnh hưởng rõ ràng từ các tác phẩm của Hokusai.

Một ảnh hưởng trực tiếp nhiều hơn là chủ nghĩa Nhật Bản, "bắt đầu với một cơn sốt thu thập tác phẩm nghệ thuật Nhật Bản, đặc biệt là ukiyo-e, trong đó một số mẫu đầu tiên đã được nhìn thấy ở Paris: Vào khoảng năm 1856, nghệ sĩ người Pháp Félix Bracquemond ban đầu đưa ra một bản sao quyển phác thảo Mạn hoạ Hokusai tại hội thảo máy in của ông ấy."

Hokusai đã truyền cảm hứng cho truyện ngắn đoạt Giải thưởng Hugo của tác giả khoa học viễn tưởng Roger Zelazny, "Hai mươi tư cảnh núi Phú Sĩ, bởi Hokusai", trong đó nhân vật chính tham quan khu vực xung quanh núi Phú Sĩ, dừng lại ở những địa điểm được Hokusai vẽ nên.

Một cuốn sách năm 2011 về sự chú ý tới chánh niệm với bài thơ "Hokusai Says" ("Hokusai nói") của Roger Keys, trước đó với lời giải thích rằng "[đôi khi] thơ ca nắm bắt linh hồn của một ý tưởng [ở đây là chánh niệm] tốt hơn bất cứ điều gì khác."[26]

Một đánh giá mô tả Hokusai là, "kể từ cuối thế kỷ thứ mười chín [đã] gây ấn tượng với các nghệ sĩ phương Tây, cũng như các nhà phê bình và những người yêu nghệ thuật, hơn nữa, có thể, hơn bất kỳ hoạ sĩ châu Á nào khác."[27]

Hokusai cũng chịu ảnh hưởng bởi Sesshū Tōyō và một số phong cách hội hoạ Trung Quốc.[28]

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c d e f Nagata [cần số trang]
  2. ^ Daniel Atkison and Leslie Stewart. "Life and Art of Katsushika Hokusai" in From the Floating World: Part II: Japanese Relief Prints, catalogue of an exhibition produced by Đại học Tiểu bang California tại Chico. Truy cập 9 tháng 7 năm 2007.
  3. ^ a b Smith, Henry D. II. "Hokusai: One Hundred Views of Mt. Fuji". George Braziller, Inc., Publishers, NY, 1988.
  4. ^ a b c d e f g Lane, Richard. "Hokusai: Life and Work." E.P. Dutton, NY, 1989.
  5. ^ Kleiner, Fred S. and Christin J. Mamiya, (2009). Gardner's Art Through the Ages: Non-Western Perspectives, p. 115.
  6. ^ a b c d Weston, p. 116
  7. ^ Weston, pp. 116–117
  8. ^ a b c d e f Weston, p. 117
  9. ^ “葛飾, 応為 カツシカ, オウイ” (bằng tiếng Nhật). CiNii. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2017.
  10. ^ a b Hokusai Heaven retrieved ngày 27 tháng 3 năm 2009 Lưu trữ 2009-09-03 tại Wayback Machine
  11. ^ Weston, p. 117–118
  12. ^ a b Weston, p. 118
  13. ^ Tinios, Ellis (tháng 6 năm 2015). “Hokusai and his Blockcutters”. Print Quarterly. XXXII (2): 186–191.
  14. ^ a b Screech, Timon (2012). “Hokusai's Lines of Sight”. Mechademia. 7: 107. JSTOR 41601844.
  15. ^ http://www.nic-nagoya.or.jp/en/e/archives/21092
  16. ^ http://www.ctv.co.jp/event/darusen/midokoro/
  17. ^ https://mainichi.jp/articles/20171124/k00/00m/040/070000c
  18. ^ http://www.chugainippoh.co.jp/religion/news/20171129-001.html
  19. ^ Weston, p. 118–119
  20. ^ a b Weston, p. 119
  21. ^ Calza, Gian Carlo. "Hokusau: a Universe" trong Hokusai, tr. 7. Phaidon
  22. ^ Weston, p. 120
  23. ^ a b Forbidden Images – Erotic art from Japan's Edo Period (bằng tiếng Phần Lan). Helsinki, Finland: Helsinki City Art Museum. 2002. tr. 23–28. ISBN 951-8965-53-6.
  24. ^ Kornicki, Peter F. The Book in Japan: A Cultural History from the Beginnings to the Nineteenth Century. Honolulu: University of Hawaii Press. tr. 331–353. ISBN 0-8248-2337-0.
  25. ^ Rhodes, David (tháng 11 năm 2011). “Hokusai Retrospective”. The Brooklyn Rail.
  26. ^ Mark Williams và Danny Penman (2011). Mindfulness: An Eight-Week Plan for Finding Peace in a Frantic World, tr. 249, 250-51.
  27. ^ Lane, Richard (1985). "Hokusai," Encyclopædia Britannica, tập 5, tr. 973.
  28. ^ Daniel Atkison and Leslie Stewart. "Life and Art of Katsushika Hokusai" in From the Floating World: Part II: Japanese Relief Prints, catalogue of an exhibition produced by California State University, Chico. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2007; “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 11 năm 2002. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp)

Sách tham khảo sửa

  • Lane, Richard. (1978). Images from the Floating World, The Japanese Print. Oxford: Oxford University Press. 10-ISBN 0192114476/13-ISBN 9780192114471; OCLC 5246796
  • Nagata, Seiji (1995). Hokusai: Genius of the Japanese Ukiyo-e. Kodansha International, Tokyo.
  • Smith, Henry D. II (1988). Hokusai: One Hundred Views of Mt. Fuji. George Braziller, Inc., Publishers, New York. ISBN 0-8076-1195-6.
  • Weston, Mark (1999). Giants of Japan: The Lives of Japan's Most Influential Men and Women. New York: Kodansha International. ISBN 1-56836-286-2.
  • Ray, Deborah Kogan (2001). "Hokusai: the man who painted a mountain" Frances Foster Books, New York. ISBN 0-374-33263-0

Đọc thêm sửa

Tiểu sử chung sửa

  • Bowie, Theodore (1964). The Drawings of Hokusai. Indiana University Press, Bloomington.
  • Forrer, Matthi (1988). Hokusai Rizzoli, New York. ISBN 0-8478-0989-7.
  • Forrer, Matthi; van Gulik, Willem R., and Kaempfer, Heinz M. (1982). Hokusai and His School: Paintings, Drawings and Illustrated Books. Frans Halsmuseum, Haarlem. ISBN 90-70216-02-7
  • Hillier, Jack (1955). Hokusai: Paintings, Drawings and Woodcuts. Phaidon, London.
  • Hillier, Jack (1980). Art of Hokusai in Book Illustration. Sotheby Publications, London. ISBN 0-520-04137-2.
  • Lane, Richard (1989). Hokusai: Life and Work. E.P. Dutton. ISBN 0-525-24455-7.
  • van Rappard-Boon, Charlotte (1982). Hokusai and his School: Japanese Prints c. 1800–1840 (Catalogue of the Collection of Japanese Prints, Rijksmuseum, Part III). Rijksmuseum, Amsterdam.

Tác phẩm nghệ thuật cụ thể sửa

Đối với độc giả muốn biết thêm thông tin về các tác phẩm nghệ thuật cụ thể của Hokusai, những tác phẩm cụ thể này được đề xuất.

  • Hillier, Jack, and Dickens, F. W. (1960). Fugaku Hiyaku-kei (One Hundred Views of Fuji by Hokusai). Frederick, New York.
  • Kondo, Ichitaro (1966). Trans. Terry, Charles S. The Thirty-six Views of Mount Fuji by Hokusai. East-West Center, Honolulu.
  • Michener, James A. (1958). The Hokusai Sketch-Books: Selections from the 'Manga'. Charles E. Tuttle, Rutland.
  • Morse, Peter (1989). Hokusai: One Hundred Poets. George Braziller, New York. ISBN 0-8076-1213-8.
  • Narazaki, Muneshige (1968). Trans. Bester, John. Masterworks of Ukiyo-E: Hokusai – The Thirty-Six Views of Mt. Fuji. Kodansha, Tokyo.

Chuyên khảo nghệ thuật sửa

Chuyên khảo dành riêng cho tác phẩm nghệ thuật của Hokusai:

  • Goncourt, Edmond de (2014). Essential Hokusai. Bournemouth, Parkstone International (released in September). ISBN 978-1-78310-128-3.
  • Goncourt, Edmond de (2014). Hokusai Mega Square. Bournemouth, Parkstone International (released in September). ISBN 978-1-78310-566-3.

Liên kết ngoài sửa

Tranh in sửa

Tiểu sử sửa