D. B. Cooper
Một bản phác họa năm 1972 của FBI về D. B. Cooper
SinhChưa rõ
Tên khácDan Cooper
Nghề nghiệpChưa rõ
Nổi tiếng vìKhông tặc một chiếc Boeing 727 vào ngày 24 tháng 11 năm 1971, sau đó nhảy dù khi máy bay vẫn đang bay; cho tới nay, vẫn chưa được nhận dạng hay bị bắt.
Chuyến bay 305 của Northwest Orient Airlines
Một chiếc Boeing 727 của Northwest Orient Airlines giống với chiếc bị không tặc
Không tặc
Ngày24 tháng 11 năm 1971
Mô tả tai nạnKhông tặc
Địa điểmPortland, bang Oregon và tại Seattle, bang Washington, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Máy bay
Dạng máy bayBoeing 727
Hãng hàng khôngNorthwest Orient Airlines
Số đăng kýN467US
Xuất phátSân bay quốc tế Portland
Điểm đếnSân bay quốc tế Seattle-Tacoma
Hành khách36 (và tên không tặc)
Phi hành đoàn6
Tử vongkhông rõ (do chưa rõ số phận của tên không tặc)
Bị thươngkhông rõ
Sống sóttoàn bộ 42 hành khách và phi hành đoàn

D. B. Cooper là tên thường được dùng để chỉ tên không tặc người đã cướp một chiếc Boeing 727 giữa không phận Portland, Oregon, và Seattle, Washington, vào ngày 24 tháng 11 năm 1971, và đòi 200.000 $ tiền chuộc (tương đương $1.450.000 năm 2022 $ giá thực tế hiện nay), sau đó nhảy dù khỏi máy bay, số phận của y tới nay vẫn chưa được làm rõ. Dù FBI đã có những cuộc săn người hùng hậu và tới nay vẫn đang điều tra vụ án này, nhưng hung thủ vẫn chưa bị nhận diện hay bị bắt. Vụ án này là vụ không tặc duy nhất chưa được phá trong lịch sử hàng không Mỹ.[1][2][3]

Dù ngay từ đầu, các nhà điều tra FBI cho rằng Cooper không thể sống sót sau cú nhảy mạo hiểm,[4] nhưng họ vẫn theo đuổi vụ án, tìm các chứng cứ, bằng chứng và nhân chứng trong quãng thời gian hơn 45 năm sau vụ án.[5] Cho tới nay, vẫn chưa có bằng chứng thuyết phục nào về nơi chốn và danh tính thật của Cooper. (Nghi phạm đã mua vé lên máy bay với tên giả Dan Cooper, nhưng do nhầm lẫn nên các phương tiện truyền thông thường nhắc tới anh ta với cái tên "D. B. Cooper".)

Vô số giả thuyết với độ thuyết phục khác nhay đã được đưa ra bởi các chuyên gia, phóng viên, và những người đam mê vụ việc.[1][6] Việc phát hiện một khoản tiền chuộc nhỏ vào năm 1980 là ngòi nổ để vụ việc nhận thêm sự quan tâm, nhưng nó chỉ làm bí ẩn càng khó có lời giải, và phần lớn số tiền chuộc vẫn chưa được tìm thấy. Vụ việc là vụ không tặc duy nhất trong lịch sử ngành hàng không Mỹ chưa bị phá.[1][2][3]

Cục điều tra liên bang Mỹ chính thức đình chỉ điều tra vụ việc vào tháng 7 năm 2016, nhưng vẫn sẽ tiếp tục đón nhận bất kì bằng chứng liên quan tới chiếc dù hay khoản tiền chuộc.[7][8]

Vụ không tặc sửa

Vụ việc bắt đầu vào buổi chiều Lễ Phục Sinh, ngày 24 tháng 11 năm 1971, tại sân bay quốc tế Portland ở, Portland, bang Oregon. Một người đàn ông mang cặp đựng tài liệu đen đến bàn bán vé của hãng hàng không Northwest Orient Airlines. Người này tự xưng danh là "Dan Cooper" và mua một vé một chiều của Chuyến bay 305, một chuyến bay dài 30 phút tới Seattle, bang Washington.[9]

Cooper lên tàu bay, một chiếc Boeing 727-100 (số đăng ký FAA N467US), và ngồi tại ghế 18C[1] (18E bởi một số nguồn khác,[10] 15D bởi một nguồn khác[11]). Người này đã châm một điếu thuốc gọi một ly bourbon và một lon soda. Nhân chứng trên máy bay cho rằng đây là một người trung tuần 40 tuổi, khoảng 5 foot 10 inch (1,78 m) tới 6 foot 0 inch (1,83 m). Anh ta mặc một chiếc áo mưa nhẹ, đi giày đi dạo, một bộ com lê đen, một chiếc áo sơ mi có cổ trắng thẳng nếp, một chiếc cà vạt đen, và một chiếc cà vạt xà cừ.[12]

 
Lệnh truy nã của FBI đối với D. B. Cooper

Chuyến bay 305, lấp đầy một phần ba chỗ ngồi, cất cánh lúc 2:50 chiều, giờ địa phương (PST). Cooper truyền một lá thư đe dọa cho Florence Schaffner, tiếp viên hàng không gần nhất đang ngồi tại ghê tiếp viên gắn với cửa sau máy bay.[1] Schaffner, rất vui vẻ vì tưởng rằng đã nhận được sô điện thoại của một doanh nhân độc thân, cất tờ giấy vào ví của cô.[13] Cooper ngả người về phía cô và thì thầm, "Cô nên nhìn vào tờ giấy đó thì hơn. Tôi có một quả bom." [gc 1] [14]

Lá thư được in một cách cẩn thận và khéo léo, tất cả các chữ in hoa đều có chân. Lá thư viết[gc 2] "Tôi có bom trong cặp đựng tài liệu. Tôi sẽ kích nổ nếu cần thiết. Tôi muốn cô đến ngồi cạnh tôi. Máy bay đã bị không tặc" [gc 3][15] Schaffner làm như yêu cầu của người đàn ông, sau đó nhẹ nhàng xin được xem quả bom. Cooper mở chiếc cặp đủ dài để cô nhìn thoáng qua tám xy-lanh màu đỏ[16] ("bốn chiếc nằm trên bốn chiếc khác") gắn với một cái dây tráng một lớp vật liệu cách nhiệt đỏ, và một cục pin lớn hình trụ.[17] Sau khi đóng cặp tài liệu, anh ta nêu rõ yêu cầu của mình: 200,000 $ "nội tệ Mỹ ";[18] bốn chiếc dù (hai dù chính và hai dù phụ); một xe chở xăng đợi sẵn tại Seattle để nạp lại xăng ngay khi máy bay hạ cánh.[19] Schaffner truyền tải yêu cầu của Cooper tới buồng lái; khi cô trở lại, anh ta đang đeo kính râm.[20]

Phi công trưởng, William Scott, liên hệ trạm kiểm soát không lưu của sân bay Seattle-Tacoma, nơi này sau đó thông báo với chính quyền liên bang. 36 hành khách còn lại được thông báo rằng việc hạ cánh ở Seattle sẽ có chút chậm trễ do "sự cố kỹ thuật".[21] Chủ tịch hãng Northwest Orient, Donald Nyrop, chuẩn bị tiền chuộc và lệnh cho nhận viên phải hợp tác với tên không tặc.[22] Máy bay vòng quanh Puget Sound trong khoảng hai giờ, thời gian này cho phép cảnh sát Seattle và FBI để đáp ứng các điều kiên của Cooper là dù và tiền chuộc, đồng thời cũng chuẩn bị sẵn xe cứu thương phòng trường hợp có người bị thương.[1]

Schaffner nhớ lại rằng Cooper có vẻ quen với địa hình địa phương; có một lần anh ta nới rằng, "Có vẻ như Tacoma ở dưới đó," khi máy bay bay trên nó. Anh ta cũng chính xác rằng Căn cứ không quân McChord chỉ khoảng 20 phút lái xe cách sân bay Seattle-Tacoma.[23][gc 4] Schaffner miêu tả người đàn ông này là một người bình tĩnh, lịch sự, và giỏi giao tiếp, không chỉ gắn với một khuôn mẫu thường được gắn cho các tên không tặc thời đó. Tina Mucklow, một tiếp viên khác, đồng ý. "Anh ta không hề lo lắng," cô nói với các nhà điều tra. "Anh ta rất tử tế. Anh ta chưa bao giờ hành xử một cách ác độc hay cộc tính. Anh ta rất thông cảm và bình tĩnh trong mọi trường hợp."[23] Anh ta gọi một cốc bourbon thứ hai và một chai nước lọc, trả tiền đồ uống của mình (và nhất quyết bắt Schaffner giữ tiền thừa),[1] và đề nghị đặt bữa ăn cho phi hành đoàn khi dừng chân tại Seattle.[24]

Những đặc vụ FBI gom tiền chuộc từ vài ngân hàng ở Seattle—10,000 tờ 20 đô-la chưa đánh dấu, nhiều tờ có số sê-ri bắt đầu bằng chữ cái "L" cho thấy rằng tờ tiền được phát hành từ Ngân hàng dự trữ Liên bang San Francisco, đa số mang thiết kế "Series 1969-C"[23]—và chụp ảnh mọi tờ tiền.[25] Cooper từ chối dù quân sự được đề nghị bởi chính quyền, đòi những chiếc dù dân dụng với dây dù bung bằng tay. Cảnh sát Seattle có được chúng từ trường dạy nhảy dù địa phương.[23]

Thả hành khách sửa

Vào lúc 5:24 chiều Cooper được thông báo là các yêu cầu của anh đã được thực hiện, và vào lúc 5:39 chiều máy bay hạ cánh xuống sân bay Seattle-Tacoma.[26] Cooper hướng dẫn Scott lăn bánh máy bay tới một khu vực cách biệt, được thắp sáng của đường băng và ngắt điện trong khoang để chặn các tay súng bắn tỉa. Giám đốc hoạt động của Northwest Orient chi nhánh Seattle, Al Lee, tiếp cận máy bay với đồ đi đường bình thường (để tránh việc Cooper nhầm đồng phục của hãng bay với đồng phục cảnh sát) và giao chiếc ba-lô chứa đầy tiền và dù cho Mucklow qua bậc cầu thang ở cửa máy bay.[27] Sau khi việc đưa tiền chuộc và dù hoàn thành Cooper cho phép tất cả mọi hành khách, Schaffner, và tiếp viên hàng không Alice Hancock rời khỏi máy bay.[26]

Khi đang tiếp nhiên liệu Cooper thông báo kế hoạch bay với tổ lái: bay hướng Tây Nam xuống Mexico City ở tốc độ thấp nhất có thể không làm máy bay rơi—khoảng 100 hải lý trên giờ (190 km/h; 120 mph)—tại độ cao tối đa 10.000 foot (3.000 m). Anh ta cũng nêu thêm rằng càng hạ cách vẫn phải mở trong trạng thái cất cánh/hạ cánh, cánh tà hạ xuống 15 độ, và khoang hành khách giữ nguyên trạng thái không điều áp.[28] Cơ phó William Rataczak thông báo cho Cooper rằng tầm hoạt động của máy bay khoảng 1.000 dặm (1.600 km) dưới những trường hợp đặc biệt, điều đó có nghĩa là cần nạp nhiên liệu lần nữa trước khi vào không phận Mexico. Cooper và tổ lại tranh luận và đồng ý rằng Reno, Nevada, là nơi đỗ để nạp nhiên liệu.[26] Cuối cùng, Cooper chỉ đạo rằng máy bay cất cánh với cửa thoát hiểm phía sau mở và cầu thang được kéo dài. Đại diện của hãng Northwest phản đối, trên mặt đất với việc cất cánh mà cầu thang vẫn kéo dài. Cooper cho rằng đây là một phương pháp an toàn, nhưng anh ta không tranh luận về điểm này; anh đã tự hạ thấp cái tôi của mình.[29]

Một đại diện của FAA yêu cầu một cuộc gặp trực tiếp với Cooper trên máy bay, nhưng bị từ chối.[30] Quá trình tiếp nhiên liệu bị gián đoạn vì khoá hơi của xe chở nhiên liệu tự động bị hỏng,[31] và Cooper trở nên nghi ngờ;[1] nhưng vẫn cho xe chở nhiên liệu thứ hai đến để nạp nhiên liệu—và chiếc thứ ba sau khi chiếc thứ hai cạn xăng.[26]

Trở lại không trung sửa

 
Boeing 727 với cầu thang hạ xuống

Vào khoảng 7:40 tối chiếc 727 cất cánh với chỉ Cooper, cơ trưởng Scott, tiếp viên Mucklow, cơ phó Rataczak, và kỹ sư H. E. Anderson trên máy bay. Hai chiếc chiến đấu cơ F-106 cất cánh từ Căn cứ không quân McChord theo sau chiếc máy bay dân dụng, bay song song với nhau, ngoài tầm nhìn của Cooper.[32] Một chiếc máy bay huấn luyện Lockheed T-33, được điều hướng từ một nhiệm vụ của Đội tuần tra trên không Mỹ, theo dõi chiếc 727 đến khi nhiên liệu đạt mức thấp ở gần biên giới bang Oregon và bang California.[33]

Sau khi cất cánh Cooper bảo Mucklow vào buồng lái với các thành viên tổ lái và ở lại khoang khách với cửa không khoá. Khi cô tuân thủ, Mucklow quan sát thấy Cooper buộc cái gì đó xung quanh eo của mình.[34] Vào khoảng 8:00 tối đèn cảnh báo trong khoang lái báo hiệu cầu thang sau đã được kích hoạt. Đề nghị hỗ trợ của phi hành đoàn thông qua hệ thống liên lạc của máy bay đã bị từ chối cộc lốc trong im lặng.[34] Phi hành đoàn sớm nhận thấy một sự thay đổi chủ quan có tác động của áp suất không khí trong khoang hành khách chỉ ra rằng cánh cửa phía sau đã được mở.

Vào khoảng 8:13 tối phần đuôi máy bay duy trì những chuyển động lên đột ngột, đủ đáng kể để phải rút ngắn cánh để cân bằng lại máy bay.[35] Vào khoảng 10:15 tối Scott và Rataczak hạ cánh chiếc 727, với cầu thang vẫn được triển khai, tại sân bay Reno. Nhiều đặc vụ FBI, lính đặc công liên bang, phó cảnh sát trưởng, và cảnh sát Reno bao vây chiếc máy bay, vào lúc đó thì việc Cooper có còn trên máy bay hay không vẫn chưa được xác định; nhưng một cuộc lục soát có vũ trang đã ngay lập tức xác nhận rằng anh ta đã biến mất.[34][36]

Điều tra sửa

Trong khoang máy bay, các đặc vụ FBI thu được 66 dấu vân tay,[3] Kẹp cà vạt đen của Cooper, và hai trong số bốn chiếc dù,[37] một trong số đó đã được cắt làm hai phần và giấu trên khoang chứa đồ.[38] Nhân chứng ở Portland, Seattle, và Reno, cùng với tất cả mọi cá nhân đã giao tiếp hay tiếp xúc với Cooper đều được thẩm vần. Rất nhiều bức phác hoạ Cooper đã được vẽ theo miêu tả của nhân chứng.[39]

Cảnh sát địa phương và các đặc vụ FBI ngay lập tức tìm kiếm nghi phạm. Một trong những kẻ tình nghi đầu tiên là một người đàn ông Oregon với hồ sơ tội phạm không đáng kể tên là D. B. Cooper, được liên hệ bởi cảnh sát Portland trong một khả năng 50-50 rằng tên không tặc sử dụng danh tính thật để cướp máy bay, hoặc tên này trong các lần gây án trước. Sự liên quan của ông ngay lập tức được loại trừ.[40] Joe Frazier của AP[41]), vội vàng với hạn nộp bài, nhầm lẫn tên nghi phạm đã bị loại với danh tính giả của tên không tặc. Lỗi này đã được vô số phương tiện truyền thông, và cái tên "D. B. Cooper" trở nên nổi tiếng ở các phương tiện thông tin đại chúng.[35]

 
Đoạn phim hoạt hình ngắn mô tả cầu thang của chiếc 727, được triển khai khi đang trong quá trình bay. Máy điều áp vẫn hoạt động cho đến khi máy bay hạ cánh. (Nhấn để xem đoạn phim)

Địa điểm hạ cánh cụ thể của tên không tặc rất khó có thể xác định, kể cả những khác biệt nhỏ nhất về ước tính tốc độ, hay điều kiện môi trường dọc đường bay (thứ có thể bị tác động đáng kể tới địa điểm và độ cao), cũng có thể thay đổi kế hoạch hạ cánh của Cooper.[42] Một biến số quan trọng là thời gian Cooper rơi tự do trước khi bung giây dù—nếu anh ta cần bung dù thành công.[43] Cả hai máy bay của Không quân Mỹ đều không phát hiện thấy thứ gì bay ra khỏi máy bay, cả khi quan sát bằng mắt thường và trên radar, và cả hai cũng đều không nhìn thấy tán dù bật ra; nhưng vào buổi tối, với tầm nhìn hạn chế và mây mù che khuất quan sát bất kỳ nguồn sáng nào phía dưới, một người đang chao liệng ở phía dưới mặc đồ đen có thể dễ dàng không để bị phát hiện.[44] Phi công của chiếc T-33 chưa bao giờ nhìn thấy chiếc 727 trong suốt hành trình.[45]

Một thí nghiệm nhằm mô phỏng vụ không tặc của Cooper ở cùng đường bay, lái bởi cơ trưởng Scott. Các đặc vụ FBI, đã thả một hình nộm nặng 200 pound (91 kg) ra khỏi cửa máy bay mở, đã có thể tái tạo được các chuyển động lên xuống của phần đuôi được mô tả bởi các phi hành đoàn chuyến bay vào 8:13 tối. Dựa trên thí nghiệm, người ta kết luận rằng 8:13 tối rất có thể là thời gian Cooper nhảy ra khỏi máy bay.[46] Tại thời điểm đó, máy bay đang bay trên bầu trời của sông Lewis ở Tây Nam bang Washington trong một cơn rông lớn.[42]

Phép ngoại suy ban đầu chỉ ra rằng địa điểm hạ cánh của Cooper có thể ở cận nam địa giới của Núi St. Helens, một vài dặm cách Ariel, bang Washington, gần Hồ Merwin, một hồ nhân tạo được hình thành bởi đập trên sông Lewis.[47] Những nỗ lực tìm kiếm tiếp tục tập trung ở các hạt ClarkCowlitz, bao gồm các đặc điểm địa hình xuất hiện ở cả mạn tả và hữu của dòng Lewis ở Tây Nam bang Washington.[48][49] Các đặc vụ FBI và các cơ quan của cảnh sát trưởng đến từ các hạt đó tìm kiếm trên một khu vực rộng có địa hình hiểm trở bằng trực thăng cũng như trên bôj. Gõ cửa từng nhà để thẩm vấn và tìm kiếm tại địa phương cũng không thành công. Các tổ chức tìm kiếm khác tuần tra bằng thuyền trên Hồ Merwin và Hồ Yale, cùng với các hồ chứa trong khu vực.[50] Không có bất kỳ dấu vết nào của Cooper, hay dụng cụ được cho là đã dời khỏi máy bay cùng với tên không tặc được tìm thấy.

FBI cũng đã chỉ đạo một cuộc tìm kiếm, sử dụng máy bay cánh cố định và trực thăng của Đội tìm kiếm cứu hô Quốc gia Oregon, dọc theo cả hành trình chuyến bay (được biết tới với cái tên Victor 23 trong thuật ngữ cơ bản ngành hàng không[51] nhưng được gọi là "Vector 23" trong trường hợp của Cooper literature[1][3][52]) từ Seattle tới Reno. Dù cho vô số ngọn cây gãy và vài mảnh nhựa cùng với vài vật thể khi nhìn từ trên không giống như tán dù được tìm thấy trong cuộc tìm kiếm, tuy nhiên không có thứ gì liên quan tới vụ không tặc được tìm thấy.[53]

Đầu năm 1972, ngay sau mùa tan băng, các đội đặc vụ FBI với sự trợ giúp của khoảng 200 lính từ Trại đóng quân Lewis, cùng với vài lính Không quân, lính Biên phòng, và lính tình nguyện, tiến hành thêm một cuộc tìm kiếm dưới bộ nữ ở khu vực hạt Clark và hạt Cowlitz trong vòng mười tám ngày trong tháng ba, và rồi mười tám ngày nữa trong tháng tư.[54] Công ty Electronic Explorations, một công ty cứu hộ biển, sử dụng tàu ngầm để tìm kiếm dưới độ sâu 200 foot (61 m) ở Hồ Merwin.[55] Hai người phụ nữ địa phương đã bắt gặp một bộ xương người trong một công bỏ hoang tại hạt Clark; điều tra sau đó đưa ra kết luận thi thể thuộc về một nữ thiếu niên đã bị bắt cóc và sát hại vài tuần trước.[56] Cuối cùng, chiến dịch tìm kiếm—được cho là cuộc tìm kiếm rộng, và chuyên sâu nhất trong lịch sử Mỹ—không tìm thấy bất kỳ bằng chứng nào về tên không tặc hay liên quan tới vụ không tặc.[57]

Những tiến triển muộn sửa

Những phân tích sâu hơn chỉ ra sự nghi ngờ về nơi nhảy dù: Scott, người tự lái máy bay (không sử dụng hệ thống lái tự động) do yêu cầu về tốc độ và độ cao của Cooper, sau đó đã xác nhận rằng đường bay của anh đã chếch về phía đông quá nhiều.[5] Dựa trên những số liệu về nhiều nguồn—cụ thể là phi công của Continental Airlines Tom Bohan, người bay sau Chuyến bay 305 khoảng bốn phút—cho rằng hướng gió tác động tới việc hạ cánh dù là sai, cùng lắm thì cũng chỉ ảnh hưởng chếch dù khoảng 80 độ.[58] Điều này và các dự liệu bổ sung cho thấy rằng vùng hạ cánh của dù có lẽ ở phía Nam-Tây Tây Nam so với dự kiến ban đầu, ở khu vực sông Washougal khô hạn.[59]

"Tôi phải thú nhận," điều tra viên trưởng phụ trách vụ án đã nghỉ hưu Ralph Himmelsbach trong cuốn sách năm 1986 của ông, "Nếu tôi [đang] đi tìm Cooper, tôi sẽ hướng thẳng tới Washougal."[60] Thung lũng Washougal và khu vực xung quanh được tìm kiếm bởi vô số cá nhân và các nhóm tìm kiếm; tới nay, chưa có dấu vết nào của tên không tặc được tìm thấy.[5]

Tìm kiếm tiền chuộc sửa

Cuối năm 1971, FBI gửi danh sách số sê-ri tiền chuộc tới mọi viện tài chính, sòng bạc, trường đua, và những nơi khác co lưu lượng tiền lưu thông lớn, cũng như là tới các tổ chức thực thi pháp luật trên thế giới. Công ty Northwest Orient đưa ra khoản tiền thưởng từ 15 phần trăm số tiền còn lại tìm thấy được, cho tới tối đa 25,000 $. Đầu năm 1972 Tổng Chưởng lý Mỹ John Mitchell công bố bản danh sách này cho dân chúng.[61] Năm 1972 hai người đàn ông dùng tờ 20 đô-la giả được in với số sê-ri trong số tiền chuộc cho Cooper để lừa 30,000 $ từ một phóng viên của Newsweek tên Karl Fleming để đổi lấy cuộc phỏng vấn với người giả là Cooper.[62]

Đầu năm 1973, khi toàn bộ số tiền chuộc vẫn chưa có tung tích gì, tờ The (Portland) Oregon Journal xuất bản lại toàn bộ danh sách số sê-ri tiền chuộc và đề nghị khoản tiền thưởng 1,000 $ cho người đầu tiên nộp tiền tới toà soạn báo hoặc bất kỳ cơ sở nào FBI. Tại Seattle, tờ Post-Intelligencer cũng đưa ra đề nghị tương tự với số tiền thưởng là 5,000 $. Đề nghị có thời hạn tới lễ Phục Sinh năm 1974, tuy có vài trường hợp tiền gần khớp số sê-ri, nhưng không có khoản tiền nào trùng khớp số sê-ri được tìm thấy.[63] Năm 1975 công ty bảo hiểm của hãng Northwest Orient, Global Indemnity Co., cùng với lệnh của Toà án Tối cao Minnesota đã trả 180,000 $ tiền bảo hiểm cho hãng hàng không.[64]

Thời hiệu sửa

Năm 1976 một cuộc tranh cãi đã phát sinh về thời hiệu hết hạn của vụ không tặc. Đa số các nhà phân tích pháp luật đều đồng ý rằng việc này đem đến ít sự thay đổi chưa nói đến việc rằng nó có thể không đem tới bất kì tiến triển nào trong việc điều tra,[65] việc giải thích quy chế pháp luật rất đa dạng, khác biệt và mang tính đặc thù dễ để có thể nhận thấy từ vụ án này qua vụ án khác và từ toà án này tới toà án khác, và ngoài ra, các thanh tra có thể tranh cãi về việc Cooper có cơ hội được miễn án dựa trên một vài cơ sở pháp lý hợp lệ hay không.[66][67] Câu hỏi đã được giải đáp vào tháng 11 khi một bồi thẩm đoàn đưa ra một bản cáo trạng vắng mặt đối với "John Doe, còn biết tới với cái tên Dan Cooper" vì tội không tặc và vi phạm Đạo luật Hobbs.[68] Cáo trạng tuyên bố rằng công tác điều tra vụ án có thể tiếp tục và nếu có thể thì phải bắt và khởi tố bị cáo tại bất kỳ thời điểm nào trong tương lai.[66]

Bằng chứng sửa

Năm 1978 một tờ yến thị trong nội dung chứa cách để mở cầu thang trong lúc bay của máy bay 727 được tìm thấy bởi một thợ săn hươu gần một con đường mòn, khoảng 13 dặm (21 km) phía Đông Castle Rock, Washington, khoảng cách quá xa về phía Bắc so với Hồ Merwin, nhưng thuộc đường bay của Chuyến bay 305.[69]

 
Một phần của phát hiện của Brian Ingram năm 1980

Vào tháng 2 năm 1980 một cậu bé tám (8) tuổi tên Brian Ingram, khi đang đi nghỉ mát cùng gia đình ở Sông Columbia cách khoảng 9 dặm (14 km) về phía hạ lưu so với Vancouver, Washington, và khoảng 20 dặm (32 km) Tây Nam Ariel, phát hiện ba bọc tiền có chứa tiền chuộc, bị hư hỏng và tan nặng nhưng vẫn được bó chặt lại với nhau bởi chun cao su, khi cậu bé cào đất ở bờ sông đầy cát bụi để nhóm lửa trại.[70] Các kỹ thuật viên của FBI xác nhận rằng toàn bộ số tiền đúng là một phần tiền chuộc trong đó có hai tập tiền có chứa 100 tờ hai mươi đô la mỗi tập, và tập tiền thứ ba có 90 tờ tiền, tất cả đều theo thứ tự sắp xếp khi số tiến chuộc được đưa cho Cooper.[71]

Sự khám phá đã đưa ra nhiều phỏng đoán, và cuối cùng gây nên nhiều câu hỏi hơn câu trả lời. Các phát ngôn ban đầu bởi các nhà điều tra và những nhà cố vấn khoa học đưa ra giả định rằng các bó tiền trôi tự do trên dòng Columbia từ một trong rất nhiều nhánh tiến chuộc. Một Công ty kỹ thuật quân đội quân sự Mỹ nghiên cứu về thuỷ văn học nhận thấy rằng các tờ tiền bị phân huỷ có tính trạng bị "mép tròn hoá", và kết dính vào nhau, chỉ ra rằng chúng đã bị phân huỷ bởi tác động của ngoại lực trong trường hợp này là bởi tác động của dòng chảy dòng sông, ngược lại với giả thiết rằng chúng đã bị chôn vùi trong cát gần lòng sông.[72] Nếu thật vậy, nó đã xác nhận rằng Cooper không hạ cánh gần Hồ Merwin, hay phần khác của Sông Lewis, vì dòng Lewis hợp dòng với Sông Columbia khá xa về phía hạ lưu dòng chảy so với nơi tìm thấy những tập tiền chuộc; và nó được tin là bằng chứng bổ sung cho nhiều giả thiết (xem Những tiến triển muộn ở phía trên) cho rằng nơi hạ cánh của Cooper gần Sông Washougal, dòng sông đã hợp dòng với Sông Columbia thượng nguồn so với nơi tìm thấy các tập tiền.[73]

Nhưng giả thiết về việc "trôi tự do" cũng có những thiếu sót; nó không giải thích việc đúng mười tờ tiền biến mất từ một trong số các tập tiền, hay những lời giải thích lô-gíc về việc ba tập tiền vẫn ở bên nhau sau khi bị tách khỏi số tiền còn lại. Các bằng chứng không thể giải thích các bằng chứng địa chất: Himmelsbach quan sát thấy những tập tiền trôi tự do phải bọ rửa trôi trên bờ sông "sau vài năm" của vụ không tặc; nếu không thì các sợi chun cao su phải bị phân huỷ hoặc hư hỏng nặng.[74] Các bằng chứng địa chất, chỉ ra rằng những tờ tiền đến nơi họ tìm ra chúng—một địa điểm sát biển được gọi là Tina (hay Tena) Bar—rất lâu sau năm 1974, năm mà công ty "Corps of Engineers" tiến hành nạo vét dòng sông. Nhà địa chất Leonard Palmer đến từ Đại học Bang Portland tìm thấy hai lớp trầm tích riêng biệt giữa các lớp đất sét bên bờ sông khi nạo các lớp bùn và các lớp cát ở nơi tìm thấy những tập tiền, chỉ ra rằng việc nạo vét lòng sông hoàn thành lâu trước khi những tờ tiền xuất hiện.[72][75] Đội Nghiên cứu Cooper phản đối kết luận của Palmer, đưa ra nhiều bằng chứng rằng các lớp đất sét lắng cặn một cách tự nhiên. Nếu phát hiện dó chính xác, thì thời gian tập tiền đến nơi chúng được phát hiện chỉ trước chưa đầy một năm cậu bé tìm thấy chúng (dựa trên việc thí nghiệm chun cao su), không giải thích tại sao nó lại đến từ Tina Bar, hay nó đến từ đâu.[76]

Rất nhiều các giả thiết thay thế được tại ra. Một vài cho rằng những tập tiền đã được tìm thấy tại một nơi khác bởi một người (hoặc có thể kể cả động vật hoang dã) không xác định, mang tới bờ sông, và vùi nó ở đó. Cũng có khả năng là tiền đã được tìm thấy bên bờ sông từ trước, có lẽ là trong quá trình nạo vét, nhưng vẫn bị vùi xuống lớp cát.[77] Cảnh sát trưởng Hạt Cowlitz cho rằng Cooper vô tình đánh rơi vài tập tiền ở cầu thang máy bay, rồi chúng bị thổi khỏi máy bay khi Cooper nhảy và rơi xuống Sông Columbia. Một biên tập viên của tờ báo địa phương đưa ra giả thiết rằng Cooper, biết rằng mình không bao giờ có thể tiêu được những tờ tiền, đã vứt hoặc tự tay chôn tiền xuống bờ sông (có thể là ở cả các nơi khác).[78] Không giả thiết nào thoả mãn tất cả những bằng chứng đã được tìm thấy: "Những tờ tiền tiếp tục chống lại mọi cách giải thích tự nhiên làm sao nó đã tới Tena Bar."[74]

Vào năm 1981 một hộp sọ của người được tìm thấy ở cùng bờ sông nơi các tập tiền được tìm thấy trong một đợt khai quật để tìm thêm bằng chứng. Những nhà giám định pháp y bệnh lý học đưa ra kết luận rằng hộp sọ đó là của một phụ nữ, nhiều khả năng là tổ tiên của Thổ dân Bản địa Mỹ.[3]

Vào năm 1986, sau một vụ thương lượng kéo dài, những tờ tiền trục vớt được được chia đều cho Ingram và hãng bảo hiểm của Northwest Orient; FBI tịch thu 14 tờ tiền làm bằng chứng.[61][79] Ingram đã bán mười lăm trong số các tờ tiền của anh ấy trong một cuộc đấu giá năm 2008 để đổi lấy 37,000 $.[80] Tới nay, không trong số 9.710 tờ tiền còn lại được tìm thấy tại bất kỳ nơi nào trên khắp thế giới. Số sê-ri của chúng vẫn được đưa lên mạng để tiện cho công chúng tra cứu.[81]

Vào năm 1988 một tán dù lạ được trục vớt từ đáy Sông Columbia, cùng đoạn sông nơi phát hiện ra những tờ tiền, nhưng các chuyên gia của FBI khẳng định rằng nó không thể là dù của Cooper.[82] Vào năm 2008 một đám trẻ tìm thấy một chiếc dù nữa gần Amboy, Washington, cách 6 dặm (9,7 km) về phía Nam so với Hồ Merwin, thứ mà sau nầy được chứng minh là có từ thời Thế chiến thứ II và có nguồn gốc từ quân đội.[83][84][85] Những tờ tiền chuộc được trục vớt từ Sông Columbia và tờ yến thị hướng dẫn mở cầu thang máy bay vẫn đang là hai bằng chứng vững chắc duy nhất từ vụ không tặc từng được tìm thấy ngoài máy bay.[86]

Các tiết lộ khác của FBI sửa

Cuối năm 2007, FBI thông báo đã thu được từng phần mẫu ADN từ ba mẫu vật chất hữu cơ tìm thấy ở cà vạt của kẻ không tặc từ năm 2001,[42] tuy nhiên, sau đó họ nhận ra rằng không có bằng chứng nào ủng hộ việc những mẫu vật chất tìm thấy đến từ tên không tặc. "Trên chiếc cà vạt có hai mẫu ADN nhỏ, và một mẫu lớn," Đặc vụ Fred Gutt nói. "Rất khó có thể đưa ra chứng cớ thuyết phục từ các mẫu vật này."[87] FBI cũng công bố công khai về một bản điều tra chứng cứ, trong đó có cả vé máy bay của Cooper từ Portland tới Seattle (giá: 18.52 $ chưa bao gồm thuế, tổng cộng là 20.00 $, được trả bằng tiền mặt).[88]

Họ cũng tiết lộ rằng Cooper sử dụng hai chiếc dù đời cũ khi nhảy, chứ không sử dụng những chiếc dù chuyên dụng; và trong hai chiếc dù còn lại, anh ta chọn một chiếc dù "tập sự"—một loại dù không sử dụng được với dây dù bị vô hiệu hoá và chỉ dùng để sử dụng trong các lớp học,[42] dù nó đã được đánh dấu rõ ràng đối với những người nhảy dù có nhiều kinh nghiệm là không sử dụng được.[89] (Anh ta xé chiếc còn lại, một chiếc dù dự trữ có thể hoạt động tốt, có thể được sử dụng để bọc và che túi tiền,[42] và gắn chặt túi tiền vào người như Mucklow đã chứng kiến.[34]) FBI chiếc dù tập sự, một trong bốn chiếc được cung cấp bởi trường dạy nhảy dù ở Seattle, là một vụ việc không cố ý.[88] Thêm vào đó, cơ quan tình báo cũng đưa ra các bản mẫu hình vẽ kẻ không tặc, cùng với việc công chúng cung cấp thông tin về nơi chốn cũng như danh tính của người giống trong hình vẽ Cooper để có thể nhận dạng đối tượng.[39][42][90]

Tháng 3 năm 2009, FBI tiết lộ rằng Tom Kaye, một nhà khảo cổ học và cổ sinh vật học đến từ Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên và Văn hóa Burke ở Seattle, đã thành lập một nhóm "công dân điều tra" trong đó có cả nhà khoa học Carol Abraczinskas và nhà lọc khoáng sinh vật học Alan Stone. Nhóm này, bây giờ được biết tới với cái tên "Đội điều tra Cooper"[gc 5],[91] hiện đang sử dụng các công nghệ mà chưa xuất hiện vào năm 1971 để điều tra lại các bằng chứng sẵn có và quan trọng của vụ án. Sử dụng GPS và hình ảnh vệ tinh, họ đang cố gắng để xác định liệu số tiền được tìm thấy bởi Ingram có thể trôi tự do tới nơi được tìm thấy, hay nó được tìm thấy ở nơi khác và bị đem đi chôn ở đó. Họ cũng nghiên cứu lại đường bay của chiếc Boeing 727 từ Seattle tới Reno để có thể dự đoán nơi hạ cánh của Cooper một cách chính xác hơn.[86] Sử dụng kính hiển vi điện tử để khám nghiệm hàng trăm phân tử trên cà vạt của Cooper, họ đã phát hiện nhiều bào tử Lycopodium (nhiều khả năng các bào tử này có xuất xứ từ dược phẩm), cùng nhiều nguyên tử bismuthnhôm.[91]

Vào tháng 11 năm 2011 Kaye tuyên bố rằng đã tìm thấy vài nguyên tử titanium nguyên chất (không bị pha trộn tạp chất) trên chiếc cà vạt. Anh giải thích rằng titan là thứ rất hiếm và không được sử dụng rộng rãi vào những năm 1970 như bây giờ, nó chỉ xuất hiện trong ngành giả kim, các dây chuyền sản xuất, hoặc tại các công ty hoá chất (kết hợp với nhôm) để bảo quản các chất hoặc hợp chất có tính ăn mòn cao.[92] Những điều đã được tìm thấy, Kaye nói, chỉ ra rằng Cooper có thể là một nhà hoá học hay một nhà lọc khoáng học, hoặc cũng có thể là một quản lý hay kỹ sư (những nhân viên duy nhất làm việc trong các cơ sở được phép mang cà vạt vào khoảng thời gian đó) trong một nhà máy hoá chất hoặc sản xuất kim loại,[93] hoặc một công ty mua bán sắt vụn từ các loại công ty kể trên.[74]

Vào đầu tháng 7 năm 2016, Cục điều tra liên bang Mỹ đã kết thúc việc điều tra vụ án của Cooper, với lý do "có nhiều ưu tiên phải làm trước mắt", nhưng nhấn mạnh rằng hồ sơ vụ án vẫn mở. Cục vẫn kêu gọi và mong đợi nhận được thêm các bằng chứng về vụ án nhất là về chiếc dù và phần chưa được tìm thấy của khoản tiền chuộc.[8]

Giả thuyết và các phỏng đoán sửa

 
FBI sketch of Cooper, with age progression

Trong những năm kể từ khi xảy ra vụ không tặc, FBI đã định kỳ công khai một số giả thuyết hoạt động và kết luận dự kiến ​​về vụ án, được rút ra từ lời khai của nhân chứng và bằng chứng vật chất khan hiếm.[94]

Mô tả vật lý chính thức vẫn không thay đổi và được coi là đáng tin cậy. Các tiếp viên hàng không Schaffner và Mucklow, người dành nhiều thời gian nhất với Cooper, đã được phỏng vấn vào cùng một đêm ở các thành phố riêng biệt[4] và đưa ra những mô tả gần giống nhau: 5 foot 10 inch (1,78 m) đến 6 foot 0 inch (1,83 m) ) cao, 170 đến 180 pound (77 đến 82 kg), ngoài 40 tuổi, với đôi mắt nâu xuyên thấu nhìn gần. Hành khách và những người chứng kiến ​​khác đã mô tả rất giống nhau.[94]

Các đặc vụ tin rằng Cooper đã quen thuộc với khu vực Seattle và có thể là một cựu chiến binh Không quân, dựa trên lời khai rằng anh ta đã nhận ra thành phố Tacoma từ trên không khi máy bay phản lực bay vòng quanh Puget Sound, và nhận xét chính xác của anh ta với Mucklow rằng Căn cứ Không quân McChord cách Sân bay Seattle-Tacoma khoảng 20 phút lái xe — một chi tiết mà hầu hết dân thường không biết hoặc không bình luận.[23] Theo các chuyên gia, tình hình tài chính của anh ta rất có thể rơi vào tình trạng tuyệt vọng, vì những kẻ tống tiền và những tên tội phạm ăn cắp số tiền lớn khác gần như luôn làm như vậy, theo các chuyên gia, vì họ cần nó gấp; nếu không, tội không đáng có rủi ro đáng kể. (Một ý kiến ​​thiểu số cho rằng Cooper là "một người thích tìm kiếm cảm giác hồi hộp", người đã thực hiện bước nhảy "chỉ để chứng minh rằng nó có thể được thực hiện.")

Các đặc vụ giả thuyết rằng anh ta lấy bí danh của mình từ một bộ truyện tranh nổi tiếng của Bỉ những năm 1970 có nhân vật anh hùng hư cấu Dan Cooper, một phi công thử nghiệm của Lực lượng Không quân Hoàng gia Canada, người đã tham gia nhiều cuộc phiêu lưu anh hùng, bao gồm cả nhảy dù. (Một trang bìa của loạt phim, được sao chép lại trên trang web của FBI, mô tả phi công thử nghiệm Cooper nhảy dù trong trang phục lính dù đầy đủ .[86]Vì truyện tranh của Dan Cooper chưa bao giờ được dịch sang tiếng Anh cũng như không được nhập khẩu sang Mỹ, họ suy đoán rằng anh ta có thể đã gặp chúng trong một chuyến đi làm nhiệm vụ ở châu Âu .[86] Nhóm nghiên cứu Cooper của Tom Kaye (xem phần Ongoing investigation) đã gợi ý khả năng thay thế rằng Cooper là người Canada và tìm thấy truyện tranh ở Canada, nơi chúng cũng được bán.[95] Họ để ý yêu cầu cụ thể của ông về "negotiable American currency",[26] một cụm từ hiếm khi được sử dụng bởi các công dân Mỹ; vì các nhân chứng nói rằng Cooper không có giọng nói dễ phân biệt, Canada sẽ là quốc gia xuất xứ của anh ta nếu anh ta không phải là công dân Hoa Kỳ.[96]

Lực lượng đặc nhiệm FBI tin rằng Cooper là một người lập kế hoạch cẩn thận và sắc sảo. Anh ta yêu cầu bốn chiếc dù để giả định rằng anh ta có thể buộc một hoặc nhiều con tin phải nhảy cùng mình, do đó đảm bảo anh ta sẽ không bị cố tình cung cấp thiết bị hư hỏng [97] Anh ta chọn một chiếc máy bay 727-100 vì nó lý tưởng cho việc cứu trợ thoát hiểm, không chỉ do cầu thang ở phía sau của nó, mà còn là vị trí cao, ở phía sau của cả ba động cơ, cho phép một cú nhảy an toàn hợp lý mà không có nguy cơ bị thiêu rụi ngay lập tức bởi ống xả phản lực. Máy bay có khả năng "tiếp nhiên liệu một điểm", một cải tiến gần đây cho phép tất cả các bình xăng được tiếp nhiên liệu nhanh chóng thông qua một cổng nhiên liệu duy nhất. máy bay cũng có khả năng (khác thường đối với một máy bay phản lực thương mại) là duy trì chuyến bay chậm, ở độ cao thấp mà không bị rơi; và Cooper biết cách kiểm soát tốc độ không khí và độ cao của nó mà không cần vào buồng lái, nơi mà anh ta có thể bị chế ngự bởi ba phi công.[98] Ngoài ra, Cooper đã quen thuộc với các chi tiết quan trọng, chẳng hạn như thiết lập cánh đảo gió thích hợp là 15 độ (chỉ dành cho máy bay đó) và thời gian tiếp nhiên liệu. Anh ta biết rằng cầu thang phía sau có thể được hạ xuống trong khi bay — một sự thật không bao giờ được tiết lộ cho các tổ bay dân sự, vì không có tình huống nào trên một chuyến bay chở khách là cần thiết — và hoạt động của cầu thang đó có thể điều khiển bằng một công tắc duy nhất ở phía sau cabin, không thể được ghi đè khỏi buồng lái.[99] Anh ta cũng có thể đã biết rằng Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ) had been using 727s to drop agents and supplies behind enemy lines during the Chiến tranh Việt Nam.[100]

Theo nhóm nghiên cứu của Kaye, kế hoạch tỉ mỉ của Cooper cũng có thể tính đến thời điểm thục hiện tội ác và thậm chí cả việc lựa chọn trang phục của anh ta. “FBI đã tìm kiếm nhưng không tìm thấy ai biến mất vào cuối tuần đó,” Kaye viết, cho thấy rằng thủ phạm có thể chỉ đơn giản là trở lại nghề nghiệp bình thường của mình. "Nếu bạn dự định 'trở lại làm việc vào thứ Hai', thì bạn sẽ cần nhiều thời gian nhất có thể để ra khỏi rừng, tìm phương tiện đi lại và về nhà. Thời điểm tốt nhất cho việc này là trước bốn giờ- cuối tuần trong ngày, đó là thời điểm mà Dan Cooper đã chọn cho tội ác của mình. " Hơn nữa, "nếu anh ta có kế hoạch trước, anh ta biết mình phải quá giang ra khỏi rừng, và việc được chọn trong bộ com-lê và cà vạt dễ dàng hơn nhiều so với chiếc quần jean xanh cũ."[74]

Bất chấp việc lập kế hoạch cẩn thận và chú ý đến từng chi tiết, Cục cảm thấy rằng Cooper thiếu kinh nghiệm và kỹ năng nhảy dù quan trọng. Đặc vụ Larry Carr, trưởng nhóm điều tra từ năm 2006, cho biết: “Ban đầu chúng tôi nghĩ Cooper là một vận động viên nhảy dù có kinh nghiệm, thậm chí có thể là một vận động viên nhảy dù”. đêm tối đen như mực, trong mưa, với gió thổi 200 dặm một giờ vào mặt, đi giày thường và mặc áo khoác ngoài. Đơn giản là quá mạo hiểm. Anh ta cũng quên rằng chiếc dù dự bị của mình chỉ dùng để tập luyện, và đã được đóng lại - điều mà một vận động viên nhảy dù có tay nghề cao sẽ kiểm tra được."[86] Anh ta cũng sai khi mà lựa mũ bảo hiểm và đã chọn nhảy với chiếc dù cũ hơn và kém hơn về mặt kỹ thuật của hai chiếc dù chính được cung cấp cho anh ta,[42] và nhảy ra nơi vơi nhiệt độ −70 °F (−57 °C) với gió lớn.[101]

Giả sử rằng Cooper không phải là lính nhảy dù, mà là một cựu binh Không quân, Carr tin rằng anh ta có thể là một người chuyên chở hàng hóa cho máy bay. Một nhiệm vụ như vậy sẽ cho anh ta kiến thức và kinh nghiệm trong ngành hàng không; và những người bốc vác — vì họ ném hàng ra khỏi máy bay — mặc dù khẩn cấp và được huấn luyện nhảy thô sơ. Việc đào tạo như vậy sẽ cung cấp cho Cooper kiến thức làm việc về nhảy dù - nhưng "không chắc chắn là có đủ kiến thức để sống sót sau cú nhảy mà anh ta thực hiện."[102]

Cục đã lập luận ngay từ đầu rằng Cooper đã không sống sót sau cú nhảy của mình.[86]Carr nói: “Nhảyy xuống vùng hoang dã mà không có kế hoạch, không có thiết bị phù hợp, trong điều kiện khủng khiếp như vậy, có lẽ anh ta thậm chí không bao giờ mở được dù của mình.[4] Ngay cả khi anh ta hạ cánh an toàn, các đặc vụ cho rằng, sống sót trong địa hình đồi núi sẽ là điều không thể nếu không có tính toán tại một điểm hạ cánh định trước, điều này sẽ đòi hỏi một bước nhảy đúng thời điểm — đòi hỏi sự hợp tác của phi hành đoàn. Không có bằng chứng nào cho thấy Cooper có bất kỳ sự giúp đỡ nào như vậy từ phi hành đoàn, cũng như không có bất kỳ ý tưởng rõ ràng nào về việc anh ta đã ở đâu khi nhảy vào bóng tối đầy bão tố, u ám..[94]

Những vụ không tặc tương tự sửa

Cooper không phải người đầu tiên không tặc để đem lại tiền bạc cho bản thân; hai tuần trước vụ không tặc của Cooper, Paul Cini đã không tặc một chiếc DC-8 của Air Canada trên bầu trời Montana, nhưng đã bị áp đảo và khống chế bởi phi hành đoàn khi đặt khẩu súng của mình cạnh chiếc dù.[103] Thành công của Cooper rõ ràng đã tạo cảm hứng cho hàng loạt những tên không tặc sau này.[104] Đa phần những "kẻ bắt chước" gây án vào năm các năm tiếp theo. Một vài ví dụ là:

  • Garrett Brock Trapnell cướp một chiếc máy bay của TWA khởi hành từ Los Angeles đi New York City vào tháng 1 năm 1972. Anh ta yêu cầu đúng 306,800 $ tiền mặt, thả tự do cho nhà hoạt động chính trị Angela Davis, và một buổi hội đàm với Tổng thống Richard Nixon. Sau khi máy bay hạ cánh xuống Sân bay Kennedy anh ta đã bị bắn trọng thương bởi các đặc vụ FBI trước khi bị bắt.[105]
  • Richard Charles LaPoint, cựu quân nhân, "tay lười bãi biển New England",[106] đã mua vé lên Chuyến bay 800 của Hughes Airwest tại Sân bay McCarran ở Las Vegas ngày 20 tháng 1 năm 1972. Khua một vật mà anh ta gọi là bom khi chiếc DC-9 đang chuyển bánh trên đường lăn, anh ta đòi 50,000 $ tiền chuộc, hai chiếc dù, và một chiếc mũ bảo hiểm.[107]Sau khi thả các hành khách và hai tiếp viên, anh ta ra lệnh cho máy bay bay theo quỹ đạo về phía đông về phía Denver, [108] sau đó được cứu trợ trên vùng đồng bằng không có cây cối ở phía đông bắc Colorado. Sau đó, bằng cách theo dõi chiếc dù được trang bị thiết bị định vị và dấu chân của anh ta trên tuyết và bùn, đã bắt anh ta vài giờ sau đó.[109][110][111]
  • Richard McCoy, Jr., một cựu quân đội ở Green Beret,[112]đã cướp một chiếc United Airlines 727-100 vào tháng 4 sau khi nó rời Denver, Colorado, chuyển hướng nó đến San Francisco, sau đó cứu trợ cho Utah với 500.000 đô la tiền chuộc. Anh ta hạ cánh an toàn, nhưng bị bắt hai ngày sau đó.[113]
  • Frederick Hahneman đã dùng súng ngắn để chiếm máy bay Eastern Airlines 727 ở Allentown, Pennsylvania, vào tháng 5, yêu cầu 303.000 đô la, và cuối cùng nhảy dù xuống Honduras, quốc gia nơi anh ta sinh ra . Một tháng sau, bị FBI truy đuổi và số tiền thưởng 25.000 đô la trên cho việc bắt anh ta, anh ta đầu hàng Đại sứ quán Mỹ ở Tegucigalpa.[114][115]
  • Robb Dolin Heady, một lính nhảy dù và cựu binh lính từng tham gia chiến tranh Việt Nam, xông vào một chiếc United Airlines 727 ở Reno vào đầu tháng 6, tống tiền 200.000 đô la và hai chiếc dù, rồi nhảy vào bóng tối gần Washoe Lake, chừng 25 dặm (40 km) vè phía anm Rino. Cảnh sát tìm thấy chiếc xe của Heady (có miếng dán cản của Hiệp hội Nhảy dù Hoa Kỳ) đậu gần hồ và bắt anh ta khi anh ta quay lại đó vào sáng hôm sau.[116][117]
  • Martin McNally, một nhân viên trạm dịch vụ đã thất nghiệp, đã sử dụng súng tiểu liên vào cuối tháng 6 để điều khiển một chiếc American Airlines 727 trên đường từ St. Louis đến Tulsa, sau đó chuyển hướng nó về phía đông đến Indiana và được trả với 500.000 USD tiền chuộc. McNally bị mất số tiền chuộc khi ra khỏi máy bay, nhưng đã hạ cánh an toàn gần Peru, Indiana, và bị bắt vài ngày sau đó ở ngoại ô Detroit.[118]

Nói chung, có tổng cộng 15 vụ không tặc tương tự như của Cooper - tất cả đều không thành công - đã được thực hiện vào năm 1972. Với sự ra đời của khám xét hành lý phổ thông vào năm 1973 , tỷ lệ không tặc nói chung đã giảm đáng kể. Không có người bắt chước Cooper đáng chú ý nào nữa cho đến ngày 11 tháng 7 năm 1980, khi Glenn K. Tripp chiếm chuyến bay Northwest 608 tại sân bay Seattle-Tacoma, đòi 600.000 đô la (100.000 đô la của một tài khoản độc lập), hai chiếc dù và vụ ám sát ông chủ của anh ta. Sau mười giờ bế tắc, anh ta bị bắt, nhưng vào ngày 21 tháng 1 năm 1983 - trong khi vẫn bị quản chế - anh ta đã cướp cùng một chuyến bay Tây Bắc, lần này là trên đường bay, và yêu cầu được bay đến Afghanistan. Khi máy bay hạ cánh xuống Portland, anh ta đã bị các nhân viên FBI bắn chết.

Những nghi phạm... sửa

Kể từ năm 1971, FBI đã xử lý hơn một nghìn "nghi phạm" cùng với các loại người tìm kiếm công khai và những người thú tội trong giường bệnh, hầu hết trong số họ không phải là nghi phạm..[3] Một số nghi phạm chú ý sau:

Kenneth Christiansen sửa

Năm 2003, một cư dân Minnesota tên là Lyle Christiansen, sau khi xem một bộ phim tài liệu truyền hình về vụ cướp Cooper, đã tin rằng người anh quá cố Kenneth của mình là D. B. Cooper. Sau nhiều lần cố gắng thuyết phục FBI, sau đó là tác giả kiêm đạo diễn phim Nora Ephron (người mà anh hy vọng sẽ làm một bộ phim về vụ án này) , anh đã liên hệ với một điều tra viên tư nhân ở New York. Năm 2010, thám tử, Skipp Porteous, đã xuất bản một cuốn sách[119] giả thuyết rằng thực chất Christiansen mơi là hung thủ. Vào đầu năm 2011, một tập của loạt phim Lịch sử Giải mã Brad Meltzer's cũng tóm tắt các bằng chứng tình huống liên kết Christiansen với vụ Cooper.[120]

Christianen nhập ngũ vào Quân đội năm 1944 và được đào tạo như một lính dù. Chiến tranh đã kết thúc vào thời điểm ông được ra quân vào năm 1945, nhưng ông vẫn thường xuyên thực hiện các cuộc huấn luyện khi đóng quân tại Nhật Bản với lực lượng chiếm đóng vào cuối những năm 1940. Sau khi rời quân đội, ông gia nhập Northwest Orient vào năm 1954 với tư cách là một thợ cơ khí ở Nam Thái Bình Dương, và sau đó trở thành một tiếp viên hàng không, và sau đó là một người theo đuổi, có trụ sở tại Seattle.[1] Christianen 45 tuổi vào thời điểm xảy ra vụ cướp, nhưng anh ta thấp hơn (5 ft. 8 inch), gầy hơn (150 pound) và nhẹ hơn so với mô tả của nhân chứng.[1] CChristianen đã hút thuốc (cũng như tên không tặc), và thể hiện niềm yêu thích đặc biệt với rượu bourbon (đồ uống ưa thích của Cooper). Anh ấy cũng thuận tay trái. (Những bức ảnh bằng chứng về chiếc cà vạt đen của Cooper cho thấy chiếc kẹp cà vạt được áp dụng từ phía bên trái, gợi ý người mặc thuận tay trái.[4]) Tiếp viên hàng không Florence Schaffner nói với một phóng viên rằng những bức ảnh của Christiansen phù hợp với trí nhớ của cô về sự xuất hiện của tên không tặc hơn những bức ảnh của những nghi phạm khác mà cô đã được cho xem..[1] (Tina Mucklow, người tiếp xúc nhiều nhất với Cooper, chưa bao giờ trả lời phỏng vấn báo chí).[121]

Christianen được cho là đã mua một ngôi nhà bằng tiền mặt vài tháng sau vụ cướp. Khi sắp chết vì bệnh ung thư vào năm 1994, ông nói với Lyle, "Có điều em nên biết, nhưng anh không thể nói với em." Lyle cho biết anh không bao giờ ép anh trai mình giải thích.[1] Sau cái chết, các thành viên trong gia đình của Christiansen đã phát hiện ra những đồng tiền vàng và một bộ sưu tập tem có giá trị, cùng với hơn 200.000 USD trong tài khoản ngân hàng. Họ cũng tìm thấy một thư mục gồm các mẩu tin tức của Northwest Orient bắt đầu về thời gian anh ta được thuê vào những năm 1950, và dừng lại ngay trước ngày xảy ra vụ không tặc, mặc dù thực tế là vụ không tặc cho đến nay là sự kiện tin tức quan trọng nhất trong ngành hàng không. lịch sử. Christianen tiếp tục làm việc bán thời gian cho hãng hàng không trong nhiều năm sau năm 1971, nhưng dường như không bao giờ cắt một câu chuyện tin tức Tây Bắc nào khác.[1]

Bất chấp sự công khai của cuốn sách của Porteous và bộ phim tài liệu truyền hình năm 2011, FBI vẫn giữ vững lập trường rằng Christianen không thể bị coi là nghi phạm chính..[42][122]Họ viện dẫn một sự trùng khớp kém với các mô tả ngoại hình của nhân chứng, trình độ chuyên môn nhảy dù cao hơn so với dự đoán của hồ sơ nghi phạm của họ và không có bằng chứng buộc tội trực tiếp.[123]

William Gossett sửa

William Pratt Gossett là một cựu binh Thủy quân lục chiến, Lục quân và Không quân, người đã chứng kiến hành động ở Hàn Quốc và Việt Nam. Kinh nghiệm quân sự của anh ấy bao gồm huấn luyện nhảy nâng cao và sinh tồn nơi hoang dã. Sau khi từ giã nghĩa vụ quân sự vào năm 1973, ông làm giảng viên ROTC, giảng dạy luật quân sự tại Đại học Bang Weber ở Ogden, Utah và tổ chức một chương trình nói chuyện trên đài phát thanh ở Thành phố Salt Lake, trong đó có các cuộc thảo luận về điều huyền bí. Ông mất năm 2003.[124]

Gossett được biết đến rộng rãi là người bị ám ảnh bởi vụ cướp Cooper. Anh ta tích lũy một bộ sưu tập đồ sộ các bài báo liên quan đến Cooper, và nói với một trong những người vợ của mình rằng anh ta biết đủ về vụ án để "viết văn bia cho D.B. Cooper". Cuối đời, ông được cho là đã nói với ba người con trai của mình, một thẩm phán Utah đã nghỉ hưu và một người bạn trong văn phòng bảo vệ công cộng Thành phố Salt Lake rằng ông đã thực hiện hành vi không tặc.[124] Những bức ảnh của Gossett được chụp vào khoảng năm 1971 gần giống với bức vẽ tổng hợp Cooper được lưu hành rộng rãi nhất.[125]

Theo Galen Cook, một luật sư đã thu thập thông tin liên quan đến Gossett trong nhiều năm, Gossett đã từng cho các con trai xem chìa khóa của một chiếc két an toàn ở Vancouver, British Columbia mà theo ông là chứa số tiền chuộc bị mất tích từ lâu..[126] GCon trai cả của ossett, Greg, nói rằng cha anh ta, một người nghiện cờ bạc luôn luôn "thiếu tiền mặt", đã chỉ cho anh ta "những món tiền" ngay trước Giáng sinh năm 1971, vài tuần sau vụ cướp Cooper. Anh ta suy đoán rằng Gossett đã đánh bạc số tiền đó ở Las Vegas.[127]

Năm 1988, Gossett đổi tên thành "Wolfgang" và trở thành một linh mục Công giáo, mà Cook và những người khác giải thích là đó một nỗ lực để che giấu danh tính của mình.[128] Bằng chứng tình huống khác bao gồm lời khai mà Cook tuyên bố có được từ William Mitchell, một hành khách trên chiếc máy bay bị cướp, liên quan đến một "chi tiết vật lý" bí ẩn (mà anh ta sẽ không tiết lộ) phổ biến đối với kẻ không tặc và Gossett.[129] Cook cũng tuyên bố đã tìm thấy "các liên kết có thể có" tới Gossett trong mỗi bức thư trong số bốn bức thư có chữ ký của "D.B. Cooper" và được gửi tới ba tờ báo trong vòng vài ngày sau vụ cướp, mặc dù không có bằng chứng cho thấy kẻ không tặc thực sự đã tạo hoặc gửi bất kỳ bức thư nào..[130]

TFBI không có bằng chứng trực tiếp liên quan đến Gossett, và thậm chí không thể đặt anh ta là nghi phạm ở Tây Bắc Thái Bình Dương vào thời điểm không tặc.[131] Đặc vụ Carr nói: “Không có một mối liên hệ nào đến vụ D.B. Cooper, ngoài những tuyên bố mà [Gossett] đưa ra cho ai đó”.[132]

Richard Floyd McCoy, Jr. sửa

 
Richard McCoy, Jr.

McCoy là một cựu quân nhân đã phục vụ hai chuyến công tác tại Việt Nam, đầu tiên là một chuyên gia phá dỡ, và sau đó, với "Mũ nồi xanh", với tư cách là một phi công trực thăng.[133] Sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự, anh ấy trở thành một sĩ quan bảo vệ trong Lực lượng Vệ binh Quốc gia Utah và là một vận động viên nhảy dù giải trí cuồng nhiệt, với nguyện vọng trở thành Quân nhân Bang Utah.[134]

Vào ngày 7 tháng 4 năm 1972, McCoy đã dàn dựng vụ không tặc nổi tiếng nhất của cái gọi là "bắt chước" (xem ở trên).[135] Anh ta lên chuyến bay 855 của United Airlines (một chiếc Boeing 727 có cầu thang phía sau) ở Denver, và khua khoắng thứ sau này được chứng minh là một cái chặn giấy giống như một quả lựu đạn cầm tay và một khẩu súng ngắn chưa được tháo dỡ, anh ta yêu cầu bốn chiếc dù và 500.000 đô la..[136] Sau khi giao tiền và dù tại sân bay quốc tế San Francisco, McCoy ra lệnh cho máy bay bay trở lại bầu trời và bay qua Provo, Utah, để lại hướng dẫn cướp viết tay và dấu vân tay của anh ta trên một tạp chí mà anh ta đang đọc.[137] Anh ta bị bắt vào ngày 9 tháng 4 với số tiền chuộc sở hữu, và sau khi xét xử và kết tội, anh ta phải nhận bản án 45 năm.[138] TVài năm sau, anh ta trốn thoát khỏi Nhà tù Liên bang Lewisburg cùng với một số đồng phạm bằng cách đâm một chiếc xe tải chở rác qua cổng chính.[139] Bị theo dõi ba tháng sau ở Bãi biển Virginia, McCoy đã bị giết trong một cuộc đấu súng với các nhân viên FBI.[135][140]

Trong cuốn sách năm 1991 của họ, D.B. Cooper: The Real McCoy, sĩ quan tạm tha Bernie Rhodes và cựu đặc vụ FBI Russell Calame khẳng định rằng họ đã xác định McCoy là D.B. Cooper. Họ trích dẫn những điểm tương đồng rõ ràng trong hai vụ không tặc, gia đình McCoy tuyên bố rằng chiếc cà vạt và chiếc kẹp cà vạt bằng ngọc trai để lại trên máy bay là của McCoy, và McCoy từ chối thừa nhận hoặc phủ nhận rằng anh ta là Cooper.[135][141] Một người đề xuất chính cho lý thuyết của họ là đặc vụ FBI đã giết McCoy. “Khi tôi bắn Richard McCoy,” anh ta nói, “Tôi đã bắn D. B. Cooper cùng lúc."[135]

Mặc dù không có nghi ngờ hợp lý nào về việc McCoy đã thực hiện hành vi không tặc Denver, FBI không coi anh ta là nghi phạm trong vụ Cooper vì sự không khớp đáng kể về độ tuổi (29) và mô tả của anh ta; một trình độ kỹ năng nhảy dù cao hơn nhiều so với kỹ năng mà không tặc sở hữu;[4] và bằng chứng đáng tin cậy cho thấy McCoy đã ở Las Vegas vào ngày xảy ra vụ cướp ở Seattle và ở nhà ở Utah vào ngày hôm sau, ăn tối Lễ Tạ ơn với gia đình.[122][142]

Duane Weber sửa

Duane L. Weber là một cựu chiến binh Quân đội Thế chiến II, người đã từng phục vụ trong ít nhất sáu nhà tù từ năm 1945 đến năm 1968 vì tội ăn trộm và giả mạo. Anh ta bị người vợ góa của mình đề xuất làm nghi phạm, chủ yếu dựa trên lời thú tội trên giường bệnh: Ba ngày trước khi anh ta chết năm 1995, Weber nói với vợ anh ta, "Tôi là Dan Cooper." Cô ấy nói rằng cái tên không có ý nghĩa gì với cô ấy; nhưng vài tháng sau, một người bạn nói với cô về tầm quan trọng của nó trong vụ không tặc. Cô đến thư viện địa phương của mình để nghiên cứu D.B. Cooper, đã tìm thấy cuốn sách của Max Gunther và phát hiện ra các ký hiệu ở lề trong chữ viết tay của chồng cô.[3]

Sau đó, cô nhớ lại, hồi tưởng lại, Weber đã từng có một cơn ác mộng khi anh nói trong giấc ngủ về việc nhảy từ một chiếc máy bay, để lại dấu vân tay của mình trên "cầu thang phía sau".[143] Anh ta cũng nói với cô rằng một chấn thương đầu gối cũ đã phát sinh do "nhảy ra khỏi máy bay". Giống như tên không tặc, Weber uống rượu bourbon và hút thuốc lá. Các bằng chứng tình tiết khác bao gồm một chuyến đi đến Seattle và sông Columbia năm 1979, trong đó Weber đi dạo một mình dọc theo bờ sông ở khu vực Tina Bar; 4 tháng sau, Brian Ingram phát hiện ra tiền chuộc của mình trong cùng một khu vực.[3]

FBI đã loại Weber như một nghi phạm vào tháng 7 năm 1998 khi dấu vân tay của anh ta không khớp với bất kỳ dấu vân tay nào được xử lý trong chiếc máy bay bị cướp,[143]và không tìm thấy bằng chứng trực tiếp nào khác liên quan đến anh ta. Sau đó, DNA của anh ta cũng không khớp với các mẫu thu được từ cà vạt của Cooper,[42][122] mặc dù Cục đã thừa nhận rằng họ không thể chắc chắn rằng vật liệu hữu cơ trên cà vạt đến từ Cooper.[87]

John List sửa

John Emil List was an accountant and World War II and Korea veteran who murdered his wife, three teenage children, and 85-year-old mother in Westfield, New Jersey fifteen days before the Cooper hijacking, withdrew $200,000 from his mother's bank account, and disappeared.[144] He came to the attention of the Cooper task force due to the timing of his disappearance, multiple matches to the hijacker's description, and the reasoning that "a fugitive accused of mass murder has nothing to lose."[136][145] After his capture in 1989, List admitted to murdering his family, but denied any involvement in the Cooper hijacking. While his name continues to crop up in Cooper articles and documentaries, no direct evidence implicates him, and the FBI no longer considers him a suspect.[146] He died in prison in 2008.[147]

Barbara Dayton sửa

Barbara Dayton, một phi công giải trí và thủ thư Đại học Washington, tên khai sinh là Robert Dayton, phục vụ trong Lực lượng Thủy quân Lục chiến Thương gia vào năm 1926 và sau đó là Quân đội trong Thế chiến thứ hai.[148]Sau khi giải ngũ, Dayton làm việc với chất nổ trong ngành xây dựng và mong muốn trở thành một hãng hàng không chuyên nghiệp, nhưng không thể lấy được bằng phi công thương mại.

Dayton đã trải qua cuộc phẫu thuật chuyển đổi giới tính vào năm 1969 và đổi tên thành Barbara.[149] Cô tuyên bố đã dàn dựng vụ cướp Cooper hai năm sau đó, cải trang thành một người đàn ông, để "trở lại" ngành hàng không và FAA, nơi mà các quy tắc và điều kiện không thể vượt qua đã ngăn cô trở thành phi công hàng không..[150] Cô cho biết cô đã giấu số tiền chuộc trong một bể chứa nước gần điểm hạ cánh của cô ở Woodburn, một khu vực ngoại ô phía nam Portland, Oregon. Cuối cùng, cô ấy kể lại toàn bộ câu chuyện của mình, bề ngoài là sau khi biết rằng cô ấy vẫn có thể bị buộc tội không tặc. FBI chưa bao giờ bình luận công khai về Dayton, người đã chết năm 2002.[148]

Ted Mayfield sửa

Mayfield là một cựu binh Lực lượng Đặc nhiệm Lục quân, cựu phi công, vận động viên nhảy dù thi đấu, huấn luyện viên nhảy dù, và một cựu phạm nhân đã từng phục vụ tội giết người do sơ suất sau khi hai học sinh của anh ta chết khi dù của họ không mở được..[151] Hồ sơ tội phạm của anh ta cũng bao gồm cướp có vũ trang và vận chuyển máy bay bị đánh cắp, và vào năm 2010, anh ta bị kết án ba năm quản chế vì lái máy bay một động cơ, 26 năm sau khi bị tước bằng lái phi công vĩnh viễn..[152] Theo Đặc vụ FBI Ralph Himmelsbach, người đã biết Mayfield từ một vụ tranh chấp trước đó tại một sân bay địa phương. Anh ta bị loại, một phần dựa trên thực tế là anh ta đã gọi điện cho Himmelsbach chưa đầy hai giờ sau khi Chuyến bay 305 hạ cánh xuống Reno để tình nguyện tư vấn về các phương pháp nhảy dù tiêu chuẩn và các khu vực hạ cánh có thể có.

Năm 2006, hai nhà nghiên cứu nghiệp dư tên là Daniel Dvorak và Matthew Myers một lần nữa đề xuất anh ta như một nghi phạm, thu hút sự đưa tin từ một đài truyền hình Portland[153] và chương trình cung cấp thông tin Inside Edition..[154] Họ khẳng định rằng họ đã tập hợp một trường hợp hoàn cảnh thuyết phục sẽ được trình bày chi tiết trong một cuốn sách sắp xuất bản. Trong số những điều khác, họ đưa ra giả thuyết rằng Mayfield gọi Himmelsbach không phải để đưa ra lời khuyên, mà là để thiết lập chứng cứ ngoại phạm; và họ thách thức kết luận của Himmelsbach rằng Mayfield không thể tìm thấy điện thoại kịp thời để gọi cho FBI chưa đầy bốn giờ sau khi nhảy xuống vùng hoang dã vào ban đêm.[154] Mayfield phủ nhận bất kỳ sự liên quan nào và lặp lại khẳng định trước đó rằng FBI đã gọi cho anh ta năm lần trong khi vụ không tặc vẫn đang được tiến hành để hỏi về kỹ thuật nhảy dù. (Himmelsbach cho biết FBI chưa bao giờ gọi cho Mayfield.[155])Mayfield nói thêm rằng Dvorak và Myers yêu cầu anh ta làm theo lý thuyết của họ, và "tất cả chúng ta sẽ kiếm được nhiều tiền." (Dvorak và Myers gọi bất kỳ suy luận thông đồng nào là "lời nói dối trắng trợn".[154])

Dvorak qua đời vào năm 2007, và cho đến nay, cuốn sách được hứa hẹn vẫn chưa được xuất bản. FBI không đưa ra bình luận nào ngoài tuyên bố ban đầu của Himmelsbach rằng Mayfield, người vẫn cư trú tại Sheridan, Oregon, đã bị loại trừ là một nghi phạm từ rất sớm.[156]

Jack Coffelt sửa

Coffelt từng là kẻ lừa đảo, người từng bị kết án và người cung cấp thông tin cho chính phủ, người tự nhận là tài xế riêng và là bạn tâm giao của hậu duệ cuối cùng không thể tranh cãi của Abraham Lincoln, chắt trai Robert Todd Lincoln Beckwith. Năm 1972, ông bắt đầu tuyên bố mình là D.B. Cooper, và cố gắng thông qua một người trung gian, một người bạn tù cũ tên là James Brown, để bán câu chuyện của mình cho một công ty sản xuất ở Hollywood. Anh ta cho biết anh ta đã hạ cánh gần Núi Hood, cách Ariel khoảng 50 dặm (80 km) về phía đông nam, khiến bản thân bị thương và mất tiền chuộc trong quá trình này. Các bức ảnh của Coffelt có nét tương đồng với các bức vẽ tổng hợp, mặc dù ông đã ngoài năm mươi vào năm 1971. Theo báo cáo, ông đã ở Portland vào ngày xảy ra vụ không tặc và bị thương ở chân vào khoảng thời gian đó, giống như một vụ nhảy dù.[157]

Tài khoản của Coffelt đã được FBI xem xét, kết luận rằng nó có nhiều chi tiết khác biệt so với thông tin chưa được công khai và do đó là bịa đặt.[158]Brown, không nản lòng, tiếp tục rao bán câu chuyện rất lâu sau khi Coffelt qua đời vào năm 1975. Nhiều phương tiện truyền thông, bao gồm cả chương trình tin tức truyền hình 60 Minutes, đã xem xét và từ chối nó. Trong một cuốn sách năm 2008 về hậu duệ của Lincoln,[159] tác giả Charles Lachman đã xem lại câu chuyện của Coffelt mặc dù nó đã bị mất uy tín 36 năm trước.

Lynn Doyle Cooper sửa

L.D. Cooper, một công nhân da và cựu chiến binh Chiến tranh Triều Tiên, đã bị đề xuất làm nghi phạm vào tháng 7 năm 2011 bởi cháu gái của ông, Marla Cooper.[160][161] Khi mới 8 tuổi, cô nhớ lại Cooper và một người chú khác đang lên kế hoạch cho một điều gì đó "rất tinh quái", liên quan đến việc sử dụng "bộ đàm đắt tiền", tại nhà của bà cô ở Sisters, Oregon, cách Portland 150 (240 km) về phía nam..[162] Tngày hôm sau chuyến bay 305 bị cướp; và mặc dù bề ngoài các chú đang săn gà tây, L.D. Cooper về nhà với một chiếc áo sơ mi dính máu - kết quả của một vụ tai nạn ô tô, theo anh ta.[122] Sau đó, cô cho biết, bố mẹ cô đã đến hay tin rằng L.D. Cooper là kẻ không tặc. Cô cũng nhớ lại rằng chú của cô, qua đời năm 1999, bị ám ảnh bởi anh hùng truyện tranh Canada Dan Cooper (xem Các lý thuyết và phỏng đoán), và "có một trong những cuốn truyện tranh của anh ấy được dán vào tường" - mặc dù anh ấy không phải là vận động viên nhảy dù hay lính nhảy dù.[163]

Vào tháng 8, tạp chí New York đã xuất bản một bản phác thảo nhân chứng thay thế, được cho là dựa trên mô tả của Robert Gregory, nhân chứng của Chuyến bay 305, mô tả kính râm gọng sừng, một chiếc áo khoác vest màu "đen đen" với ve áo rộng và tóc tết. Bài báo ghi rằng L.D. Cooper có mái tóc gợn sóng trông rất điệu đà (Duane Weber cũng vậy).[164]

Vào ngày 3 tháng 8, FBI thông báo rằng không tìm thấy dấu vân tay nào trên dây đeo đàn guitar do L.D. Cooper.[165] Một tuần sau, họ nói thêm rằng DNA của anh ta không khớp với hồ sơ DNA một phần thu được từ chiếc cà vạt của tên không tặc, nhưng một lần nữa thừa nhận rằng không có gì chắc chắn rằng kẻ không tặc là nguồn của vật liệu hữu cơ thu được từ chiếc cà vạt..[87] Cục đã không đưa ra bình luận công khai nào thêm.

Kết quả... sửa

An ninh hàng không sửa

Vụ cướp Cooper đã đánh dấu sự khởi đầu của sự kết thúc cho chuyến du lịch hàng không không được kiểm soát và không được kiểm tra kỹ lưỡng. Mặc dù đã khởi xướng chương trình Sky Marshal liên bang vào năm trước,[166] 31 vụ không tặc đã được thực hiện trong không phận Hoa Kỳ vào năm 1972, 19 trong số đó nhằm mục đích cụ thể là tống tiền. (Hầu hết phần còn lại là nỗ lực đến Cuba.)[167]Trong 15 trường hợp tống tiền, những kẻ không tặc cũng yêu cầu dù. Đầu năm 1973, FAA bắt đầu yêu cầu các hãng hàng không khám xét tất cả hành khách và hành lý của họ. Trong bối cảnh nhiều vụ kiện cáo buộc rằng các cuộc khám xét như vậy vi phạm các biện pháp bảo vệ của Tu chính án thứ tư chống lại việc khám xét và thu giữ, các tòa án liên bang đã phán quyết rằng chúng được chấp nhận khi được áp dụng trên toàn cầu và khi bị giới hạn trong việc tìm kiếm vũ khí và chất nổ. Trái ngược với 31 vụ không tặc vào năm 1972, chỉ có hai vụ được thực hiện vào năm 1973, đều do các bệnh nhân tâm thần, một trong số đó định đâm máy bay vào Nhà Trắng để giết Tổng thống Nixon.[168]

Sửa dồi hàng không sửa

 
Một cánh gió Cooper ở vị trí mở khóa

Sau nhiều vụ không tặc "bắt chước" vào năm 1972, FAA yêu cầu tất cả các máy bay Boeing 727 phải được lắp một thiết bị, sau này được gọi là "cánh gió Cooper", ngăn chặn việc hạ thấp đường bay phía sau trong khi bay.[169] Một số hãng hàng không đã quyết định từ bỏ hoàn toàn việc sử dụng sân bay và chỉ cần hàn các cửa sau của những chiếc 727 của họ lại.[166]

Một sửa đổi ít được biết đến được chỉ định do hậu quả trực tiếp của vụ không tặc là việc lắp đặt các lỗ nhỏ ở tất cả các cửa buồng lái, giúp phi hành đoàn có thể quan sát các sự kiện trong cabin hành khách khi cửa buồng lái đóng.[170]

Tuơng lai của chiếc N467US sửa

 
Máy bay tham gia vụ không tặc năm 1979 khi đang phục vụ cho Hãng hàng không Piedmont (1948–1989)

Năm 1978, chiếc máy bay 727-100 bị cướp đã được Northwest bán cho Hãng hàng không Piedmont, nơi nó được đăng ký lại N838N và tiếp tục hoạt động trong dịch vụ vận chuyển nội địa. Năm 1984, nó được mua lại bởi công ty cho thuê Key Airlines hiện không còn tồn tại, đăng ký lại N29KA và được kết hợp vào đội bay thuê dân sự của Không quân chuyên chở công nhân giữa Căn cứ Không quân Nellis và Bãi thử Tonopah trong quá trình phát triển F-117 Nighthawk tối mật. chương trình. Năm 1996, chiếc máy bay này đã được tháo dỡ để lấy các bộ phận trong một vườn nho Memphis.[61]

Cái chết của Earl Cossey sửa

Vào cuối tháng 4 năm 2013, Earl Cossey, chủ sở hữu của trường dạy nhảy dù cung cấp bốn chiếc dù cho Cooper, được tìm thấy đã chết trong nhà của anh ta ở Woodinville, ngoại ô Seattle. Cái chết của anh ta được coi là một vụ giết người do vết thương do lực thẳng vào đầu. Hiện vẫn chưa rõ hung thủ.[171] Các nhà lý thuyết về âm mưu ngay lập tức bắt đầu chỉ ra các mối liên hệ có thể có với trường hợp Cooper,[172] nhưng các nhà chức trách trả lời rằng họ không có lý do gì để tin rằng có bất kỳ liên kết nào như vậy tồn tại. Các quan chức Woodinville sau đó thông báo rằng động cơ gây án rất có thể là do ăn trộm.[173]

Ảnh hưởng tới văn hoá sửa

Trong khi D.B. Cooper là một tên không tặc và tống tiền (Himmelsbach nổi tiếng khi gọi Cooper là "tên lừa đảo xấu xa nhếch nhác"[174]) người đã đe doạ 42 mạng người và gây nên sự bất tiện không thể đo đếm cho vô số người, sự táo bạo, mạo hiểm chưa từng có truyền cảm hứng cho nhiều người được thể hiện qua bài hát, phim và văn chương. Các thành phố Tây Bắc Thái Bình Dương có bán đồ lưu niệm cho khách du lịch và tổ chức lễ hội nhỏ để nhớ tới Cooper. Cooper được ghi nhớ ở Ariel, Washington, với sự kiện "Ngày Cooper" được tổ chức thường niên trong dịp cuối tuần sau Lễ Phục Sinh, và nhiều nơi khác cùng với tiệc chủ đề về Cooper được tổ chức tại nhà hàng và sàn bowling. Cooper cũng được nhắc tới trong cốt truyện của nhiều chương trình truyền hình nổi tiếng như TV Vượt ngục, White Collar, NewsRadio, và Numb3rs, cũng như tựa sách The Vesuvius Prophecy, dựa trên sê-ri truyền hình The 4400.[175]

Ghi chú sửa

  1. ^ Nguyên văn tiếng Anh: "Miss, you'd better look at that note. I have a bomb."
  2. ^ Từng từ chính xác chưa bao giờ được xác nhận, khi mà tên không tặc đã lấy lại tờ giấy.
  3. ^ Nguyên vãn tiếng Anh: "I have a bomb in my briefcase. I will use it if necessary. I want you to sit next to me. You are being hijacked."
  4. ^ Vì tốc độ tối đa 70 mph (110 km/h) trên đường cao tốc liên bang số 5 và ít khi có tắc đường ở tuyến đường này, đây là một khoảng thời gian hợp lý vào năm 1971
  5. ^ Tên Tiếng Anh: Cooper Research Team

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n Gray, Geoffrey (21 tháng 10 năm 2007). “Unmasking D.B. Cooper”. New York magazine. ISSN 0028-7369. Truy cập 20 tháng 4 năm 2015.
  2. ^ a b Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 135.
  3. ^ a b c d e f g h Pasternak, Douglas (24 tháng 7 năm 2000). “Skyjacker at large”. U.S. News & World Report VOL 129, ISSU 4; 72-73. ISSN 0041-5537.
  4. ^ a b c d e “D.B. Cooper Redux: Help Us Solve the Enduring Mystery”. 31 tháng 12 năm 2007. Truy cập 13 tháng 6 năm 2015.
  5. ^ a b c Seven, Richard (17 tháng 11 năm 1996). “D.B. Cooper – Perfect Crime or Perfect Folly?”. The Seattle Times. Truy cập 24 tháng 9 năm 2015.
  6. ^ “F.B.I. makes new bid to find 1971 skyjacker”. The San Francisco Chronicle. Associated Press. 2 tháng 1 năm 2008. Bản gốc lưu trữ 26 tháng 4 năm 2015. Truy cập 26 tháng 4 năm 2015.
  7. ^ Update on Investigation of 1971 Hijacking by D.B. Cooper. FBI.gov, Truy cập 12 tháng 7 năm 2016.
  8. ^ a b McNerthney, Casey. “D.B. Cooper case no longer actively investigated by FBI”. KIRO7. Truy cập 12 tháng 7 năm 2016.
  9. ^ Olson, James S. (1999). Historical Dictionary of the 1970s. Westport, Connecticut: Greenwood Press. tr. 107. ISBN 0-313-30543-9.
  10. ^ History's Greatest Unsolved Crimes. Frances Farmer Archive Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2015.
  11. ^ Gunther 1985, tr. 32.
  12. ^ Tizon, Tomas A. (4 tháng 9 năm 2005). “D.B. Cooper – the search for skyjacker missing since 1971”. San Francisco Chronicle. Truy cập 29 tháng 9 năm 2015.
  13. ^ Bragg, Lynn E. (2005). Myths and Mysteries of Washington. Guilford, Connecticut: Globe Pequot. tr. 2. ISBN 0-7627-3427-2.
  14. ^ Steven, Richard (24 tháng 11 năm 1996). “When D.B. Cooper Dropped From Sky: Where did the daring, mysterious skyjacker go? Twenty-five years later, the search is still on for even a trace”. The Philadelphia Inquirer. tr. A20.
  15. ^ Burkeman, Oliver (1 tháng 12 năm 2007). “Heads in the clouds”. The Guardian. London. Truy cập 2 tháng 9 năm 2015.
  16. ^ Khi miêu tả của Schaffner được gửi tới trụ sở FBI ở Portland, các đặc vụ chỉ ra rằng kíp nổ thường có màu nâu hoặc màu be; tám xi-lanh đỏ có thể là nhựa đường cao tốc hoặc pháo sáng dùng trong ngành xe lửa. Nhưng do họ không chắc chắn, nên đây không phải là một chủ đề có thể bàn tán. (Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 40–41)
  17. ^ Transcript of Crew Communications Retrieved February 25, 2011.
  18. ^ Gần như tất cả mọi nguồn đều cho rằng Cooper chỉ đạo việc tất cả tiền chuộc đều là tờ 20 đô la; ngoại trừ Himmelsbach, người có mặt khi đề nghị tiền chuộc được gửi tới, viết rằng anh ta chỉ nhắc tới "tiền nội tệ Mỹ, mệnh giá không quan trọng." (Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 18) Tất cả mọi nguồn đều đồng nhất rằng tất cả tiền chuộc có mệnh giá 20 đô.
  19. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 18.
  20. ^ Krajicek, David. “The D.B. Cooper Story: The Crime”. Crime Library. Truy cập 3 tháng 9 năm 2015.
  21. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 20.
  22. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 19.
  23. ^ a b c d e Krajicek, David. “The D.B. Cooper Story: Meeting the Demands”. Crime Library. Truy cập 3 tháng 1 năm 2015.
  24. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 22.
  25. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 25.
  26. ^ a b c d e Krajicek, David. “The D.B. Cooper Story: 'Everything Is Ready'. Crime Library. Truy cập 3 tháng 1 năm 2015.
  27. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 28.
  28. ^ Rothenberg and Ulvaeus, tr. 5.
  29. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 33–34.
  30. ^ Rothenberg, David; Ulvaeus, Marta (1999). The New Earth Reader: The Best of Terra Nova. Cambridge, Massachusetts: MIT Press. tr. 4. ISBN 0-262-18195-9.
  31. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 32.
  32. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 36.
  33. ^ Gunther 1985, tr. 53.
  34. ^ a b c d Krajicek, David. “The D.B. Cooper Story: The Jump”. Crime Library. Truy cập 9 tháng 1 năm 2015.
  35. ^ a b Bragg, tr. 4.
  36. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 48.
  37. ^ Earl Cossey, người dạy nhảy dù cũng là người cung cấp dù cho biết rằng ba chiếc dù đã được trả lại (một dù chính và hai dù phụ) cho ông.Tuy nhiên FBI, luôn luôn nói rằng chỉ có hai chiếc dù, một dù chính và một dù phụ đã bị cắt, được tìm thấy trên máy bay. (Gunther 1985, tr. 50)
  38. ^ Cowan, James (3 tháng 9 năm 2015). “F.B.I. reheats cold case”. National Post. Bản gốc lưu trữ 2 tháng 9 năm 20015. Truy cập 9 tháng 9 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archivedate= (trợ giúp)
  39. ^ a b Hồ sơ FBI phần 1, từ Hồ sơ FBI vụ Dan Cooper, xem thêm ảnh thực sự mà FBI dùng làm ảnh truy nã.
  40. ^ Guzman, Monica (27 tháng 11 năm 2007). Update: Everyone wants a piece of the D. B. Cooper legend. Seattle Post-Intelligencer Truy cập 25 tháng 9 năm 2015.
  41. ^ Gunther 1985, tr. 55.
  42. ^ a b c d e f g h i “D.B. Cooper: Help Us Solve the Enduring Mystery”. FBI. 31 tháng 12 năm 2007. Truy cập 5 tháng 2 năm 2009.
  43. ^ Gunther 1985, tr. 68.
  44. ^ Taylor, Michael (24 tháng 9 năm 1996). “D.B. Cooper legend still up in air 25 years after leap, hijackers prompts strong feelings”. San Francisco Chronicle.
  45. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 47.
  46. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 80–81.
  47. ^ Skolnik, Sam (22 tháng 11 năm 2001). “30 years ago, D.B. Cooper's night leap began a legend”. Seattle Post-Intelligencer. Truy cập 11 tháng 9 năm 2015. (cần đăng ký mua)
  48. ^ Bản đồ địa hình, nửa Bắc khu vực tìm kiếm Truy cập 25 tháng 9 năm 2015.
  49. ^ Bản đồ địa hình, nửa phía Nam của cuộc tìm kiếm Truy cập 25 tháng 9 năm 2015.
  50. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 67–68.
  51. ^ “Aeronautical Information Manual”. Federal Aviation Administration. Bản gốc lưu trữ 21 tháng 9 năm 2015. Truy cập 10 tháng 9 năm 2015.
  52. ^ Nuttall 2010, tr. 90–91.
  53. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 71.
  54. ^ Olson 2010, tr. 34.
  55. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 101–104.
  56. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 86.
  57. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 87–89.
  58. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 111–113.
  59. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 114–116.
  60. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 115.
  61. ^ a b c D.B. Cooper: A Timeline (tháng 10 năm 2007) New York Magazine Archives Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2015.
  62. ^ Hồ sơ FBI về vụ của Fleming, được công bố tới công chúng bởi Freedom of Information Act (Đạo luật thông tin tự do) Truy cập 15 tháng 9 năm 2015.
  63. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 95.
  64. ^ Gunther 1985, tr. 184.
  65. ^ Frazier, Joe (13 tháng 11 năm 1976): "Sky Thief: Bandit Who Stole $200,000 in 1971 Still Being Sought" Pittsburgh Post-Gazette, p. B-1. Truy cập ngày 13 tháng 10 năm 2015.
  66. ^ a b Gunther 1985, tr. 179.
  67. ^ CRS Report for Congress: Statutes of Limitation in Federal Criminal Cases: An Overview. FAS.org Truy cập 12 tháng 10 năm 2015.
  68. ^ Denson, Bryan (November 24, 1996). D.B. Cooper legend lives. Oregon Live archive Retrieved March 6, 2011.
  69. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 108.
  70. ^ “Man may auction D.B. Cooper cash”. The Seattle Times. Associated Press. 13 tháng 2 năm 2006. Truy cập 10 tháng 10 năm 2015.
  71. ^ Associated Press (22 tháng 5 năm 1986). Boy to Split $5,520 of D. B. Cooper's Loot. LA Times archive Truy cập 21 tháng 10 năm 2015.
  72. ^ a b Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 110.
  73. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 110–111.
  74. ^ a b c d Research Conclusions: Website của "Đôị Nghiên cứu Cooper". Truy cập 19 tháng 9 năm 2015.
  75. ^ “Cash linked to 'D.B. Cooper' up for auction”. MSNBC. 31 tháng 3 năm 2008. Truy cập 31 tháng 10 năm 2015.
  76. ^ Palmer Report: Website của "Đôị Nghiên cứu Cooper". Truy cập 9 tháng 5 năm 2015.
  77. ^ Nuttall, George C. (2010) D.B. Cooper Case Exposed. Vantage Press. ISBN 0-533-16390-0
  78. ^ Gunther 1985, tr. 203.
  79. ^ Six Years Later Brian Ingram Gets a Piece of D.B. Cooper's Hijack Haul (23 tháng 6 năm 1986). People Magazine archive Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2015.
  80. ^ “D.B. Cooper Skyjacking Cash Sold in Dallas Auction”. Fox News. Associated Press. 13 tháng 6 năm 2009. Truy cập 14 tháng 10 năm 2015.
  81. ^ “D B Cooper's Loot Serial Number Searcher”. Check-six.com. 19 tháng 10 năm 2010. Truy cập 29 tháng 9 năm 2015.
  82. ^ Johnson, Gene (3 tháng 4 năm 2008). “F.B.I.: Parachute Isn't Hijacker Cooper's”. USA Today. Associated Press. Truy cập 31 tháng 8 năm 2015.
  83. ^ “Did children find D.B. Cooper's parachute?”. MSNBC. 25 tháng 3 năm 2008. Truy cập 25 tháng 9 năm 2015.
  84. ^ McNerthney, Casey (3 tháng 4 năm 2008): Suspected D.B. Cooper parachute may actually be from '45 military crash. seattlepi.com. Truy cập 7 tháng 10 năm 2015.
  85. ^ “Parachute 'absolutely' not Cooper's”. MSNBC. 1 tháng 4 năm 2008. Truy cập 1 tháng 4 năm 2011.
  86. ^ a b c d e f “In Search of D.B. Cooper: New Developments in the Unsolved Case”. F.B.I. Headline Archives. 17 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2011.
  87. ^ a b c Cloherty, Jack (9 tháng 8 năm 2011): D.B. Cooper DNA Results: "Not A Match". ABCNews.com Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2011
  88. ^ a b Ingalls, Chris (1 tháng 11 năm 2007). “Investigators: F.B.I. unveils new evidence in D.B. Cooper case”. King 5. Bản gốc lưu trữ 5 tháng 1 năm 2008. Truy cập 11 tháng 3 năm 2008.
  89. ^ Gunther 1985, tr. 40.
  90. ^ “Interview with lead FBI Investigator Larry Carr”. Steven Rinehart. 2 tháng 2 năm 2008. Truy cập 2 tháng 2 năm 2008.
  91. ^ a b Trang web của Đội điều tra Cooper
  92. ^ Ingalls C (23 tháng 11 năm 2011): "40 years later, new evidence unveiled in DB Cooper case". King5.com archive. Truy cập 29 tháng 5 năm 2013
  93. ^ Johnson, Gene (AP) (23 tháng 11 năm 2011). 40 years later, DB Cooper's identity a mystery. KGW.com, Portland, OR Truy cập 23 tháng 11 năm 2011
  94. ^ a b c "It's an Enigma." JCS-Group.com Recovered January 31, 2011.
  95. ^ Boswell, Randy (November 24, 2011). FBI-backed team finds Canadian link to famous '70s plane hijacking Canadian National Post archive Retrieved December 5, 2011
  96. ^ Research Summary. Cooper Research Team web site Retrieved December 7, 2011
  97. ^ Gunther 1985, tr. 44.
  98. ^ Gunther 1985, tr. 46.
  99. ^ Gunther 1985, tr. 136.
  100. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 43.
  101. ^ Johnson, Gene (25 tháng 11 năm 2011). “D.B. Cooper enigma still fascinates”. USA Today. Associated Press. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2012.
  102. ^ In Search of D.B. Cooper: New Developments in the Unsolved Case (March 17, 2009). FBI.gov Retrieved January 31, 2011.
  103. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 94.
  104. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 73.
  105. ^ Killen, Andreas (15 tháng 1 năm 2005). The First Hijackers. New York Times Archive. Truy cập cập 29 tháng 6 năm 2011.
  106. ^ Miniclier, Kit (21 tháng 1 năm 2001). “Skyjacker a Colorado oddity?”. Denver Post. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2013.
  107. ^ “Hijacker caught after parachuting over Colorado with $50,000 in cash”. Lewiston Daily Sun. Associated Press. 21 tháng 1 năm 1972. tr. 1.
  108. ^ Taylor, Daniel L. (21 tháng 1 năm 1972). “Parachutist hijacker captured”. Eugene Register Guard. UPI. tr. 3A.
  109. ^ “Chuting hijacker caught by police”. Spokesman-Review. Associated Press. 21 tháng 1 năm 1972. tr. 1.
  110. ^ “Hijacker with $50,000 loot captured after bailing out”. Milwaukee Journal. 21 tháng 1 năm 1972. tr. 1.
  111. ^ “Hijacker foiled; tracked by jets”. Spokane Daily Chronicle. Associated Press. 21 tháng 1 năm 1972. tr. 19.
  112. ^ Skyjacker – The Richard McCoy Jr. Story (March 2, 2011). ParachutistOnLine.com Retrieved February 25, 2013.
  113. ^ Richard Floyd McCoy, Jr. – aircraft hijacking. – FBI.gov Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2015.
  114. ^ Whelan, Frank (June 30, 1985): "A-B-E Hijacker Who Parachuted into Jungle Is Free From Prison Air Piracy" Morning Call Archive Retrieved August 3, 2011.
  115. ^ Lehigh Valley International Airport began as airmail stop (September 3, 2010). Lehigh Valley History Retrieved March 8, 2011.
  116. ^ Heady, 22, Night jump, Reno, $200k, Vietnam vet, gun, sticker, caught immediately (August 1, 2008). Dropzone.com Retrieved March 8, 2011.
  117. ^ Photo of Heady's arrest (June 3, 1972). Dropzone.com Retrieved March 8, 2011.
  118. ^ Curtis, Gene (July 8, 2007). Only in Oklahoma: Skyjacker nabs Tulsa plane in error-filled romp. TulsaWorld.com archive Retrieved March 8, 2011.
  119. ^ Porteous & Blevins 2010.
  120. ^ “D.B. Cooper”. Brad Meltzer's Decoded. Mùa 1. Tập 6. 6 tháng 1 năm 2011. History.
  121. ^ McShane, Larry (2 tháng 9 năm 2011). “Tina Mucklow, D.B. Cooper-hijacking flight attendant found; Woman was go-between for Cooper, crew”. Daily News. New York.
  122. ^ a b c d “FBI working new lead in D.B. Cooper hijacking case”. CNN. 1 tháng 8 năm 2011. Truy cập 5 tháng 6 năm 2015.
  123. ^ “F.B.I. rejects latest D.B. Cooper suspect”. Seattle Post-Intelligencer. Associated Press. 26 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2008.
  124. ^ a b Yet Another D. B. Cooper Suspect: William Pratt "Wolfgang" Gossett. Crime Slam Retrieved February 1, 2011.
  125. ^ Photos of Gossett, 1967–73 Retrieved February 2, 2011.
  126. ^ “U.S. lawyer believes notorious fugitive D.B. Cooper hid ransom money in Vcr bank”. Canadian Press. 3 tháng 8 năm 2008.
  127. ^ “Investigator Claims Depoe Bay Man Was Infamous 'D.B. Cooper'”. Depoe Bay Beacon. 28 tháng 5 năm 2008.
  128. ^ Craig, John S. "D.B. Cooper Suspect Named: William Pratt Gossett," associatedcontent.com.
  129. ^ Craig, John S. "1971 D.B. Cooper Letters Linked to Suspect William Gossett," associatedcontent.com.
  130. ^ "Letter to Gazette Checked in FBI Hunt for Skyjacker," Reno Evening Gazette, November 29, 1971; "Words in 'Skyjacker Note' to Gazette Clipped from Modesto Bee, FBI Told," Reno Evening Gazette, November 30, 1971; "Gazette Receives Hijacker 'Letter' – Second in a Week," Reno Evening Gazette, December 3, 1971. For detailed analysis of letters see "1971 D.B. Cooper Letters Linked to Suspect William Gossett," associatedcontent.com.
  131. ^ Spencer, Kent (November 21, 2011): Skyjacker D.B. Cooper 'enjoyed the Grey Cup game,' according to 1971 letter attributed to him. National Post archive Retrieved December 1, 2011
  132. ^ Was D.B. Cooper an Ogden Resident? (July 28, 2008) Deseret News (Salt Lake City) via Associated Press Retrieved February 1, 2011.
  133. ^ “The Real McCoy”. Time. 24 tháng 4 năm 1972. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2007.
  134. ^ “Skydiver Held as Hijacker; $500,000 Is Still Missing”. New York Times. Associated Press. 10 tháng 4 năm 1972. tr. 1.
  135. ^ a b c d Krajicek, David. “The D.B. Cooper Story: The Copycats”. Crime Library. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2008.
  136. ^ a b Coreno, Catherine (22 tháng 10 năm 2007). “D.B. Cooper: A Timeline”. New York. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2008.
  137. ^ Famous Cases & Criminals. FBI.gov Retrieved May 29, 2013
  138. ^ “Skydiver Held as Hijacker; $500,000 Is Still Missing”. Associated Press. 10 tháng 4 năm 1972.
  139. ^ “Widow of Man Linked in Book to Skyjacker D.B. Cooper Sues Authors, Provo Attorney”. Associated Press. 18 tháng 1 năm 1992. tr. B5.
  140. ^ Funk, Marianne (February 21, 1992). McCoy's Widow Admits Helping in '72 Hijacking. Deseret News Archive Retrieved February 21, 2011.
  141. ^ Schindler, Harold (24 tháng 11 năm 1996). “25 Years Later, 'D.B' Remains Tied to Utah; Skyjacker Took Story To His Grave”. The Salt Lake Tribune.
  142. ^ Hamilton, Don (23 tháng 10 năm 2004). “F.B.I. makes new plea in D.B. Cooper case”. The Seattle Times.
  143. ^ a b Krajicek, David. “The D.B. Cooper Story: "I'm Dan Cooper. So Am I.". Crime Library. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2008.
  144. ^ “Suspect in Family-Slaying May Be Famed D.B. Cooper”. Los Angeles Times. 30 tháng 6 năm 1989. tr. A1.
  145. ^ Benford, Timothy B.; Johnson, James P. (2000). Righteous Carnage: The List Murders in Westfield. Lincoln, Nebraska: iUniverse. tr. 76–77. ISBN 0-595-00720-1.
  146. ^ McCracken, Elizabeth (28 tháng 12 năm 2008). “Wanted: A Killer Disappears Into Another Life”. The New York Times. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2014. Không cho phép mã đánh dấu trong: |publisher= (trợ giúp)
  147. ^ Stout, David (25 tháng 3 năm 2008). “John E. List, 82, Killer of 5 Family Members, Dies”. The New York Times. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2008.
  148. ^ a b Bruce A. Smith (11 tháng 2 năm 2011). “The Hunt for DB Cooper”. The Mountain News – WA. Truy cập 10 tháng 10 năm 2015. (cần đăng ký mua)
  149. ^ Pat Forman, Ron Forman (2008). The Legend of D B Cooper. Lulu.com.
  150. ^ Olson 2010, tr. 72–73.
  151. ^ Skydiving Operator Faces Charges Over Deaths of 2 Jumpers (February 13, 1995). Seattle Times archive. Retrieved October 10, 2012
  152. ^ McCowan, Karen (January 20, 2010). Illegal flight lands pilot in trouble once again. Register-Guard archive Retrieved February 24, 2011.
  153. ^ D.B. Cooper KOIN segment (2007) trên YouTube Retrieved February 24, 2011.
  154. ^ a b c D.B. Cooper Inside Edition segment (2007) trên YouTube Retrieved February 24, 2011.
  155. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 52.
  156. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 51.
  157. ^ “Has The Mystery of D.B. Cooper Been Solved?”. InsideEdition.com. 6 tháng 10 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2011.
  158. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 83–84.
  159. ^ Lachman, Charles (2008). The Last Lincolns: The Rise & Fall of a Great American Family. Union Square Press. ISBN 1-4027-5890-1.
  160. ^ Provano, Joel (August 3, 2011): Woman claims D.B. Cooper was her uncle. AJC.com Retrieved August 3, 2011.
  161. ^ Alex Hannaford (30 tháng 7 năm 2011). “The 40-year mystery of America's greatest skyjacking – Telegraph”. London: Daily Telegraph. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2011.
  162. ^ Berkes, Howard (2011). “FBI Says It Has 'A New Suspect' In D.B. Cooper Skyjacking Case: The Two-Way: NPR”. npr.org. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2011.
  163. ^ Thomas, P and Cloherty, J (August 3, 2011): "D.B. Cooper Exclusive: Did Niece Provide Key Evidence?" ABCNews.com Retrieved August 3, 2011.
  164. ^ Gray, Geoffrey. “DNA Test Negative for D.B. Cooper Suspect; a New Sketch Emerges”. Crime Library. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2012.
  165. ^ McNerthney, Casey (1 tháng 8 năm 2011). “No fingerprints found on item in D.B. Cooper case”. seattlepi.com. Truy cập ngày 2 tháng 8 năm 2011.
  166. ^ a b Wu, Annie. The History of Airport Security. SavvyTraveler.publicradio.org Retrieved February 14, 2011.
  167. ^ Holden, Robert T. The Contagiousness of Aircraft Hijacking UCF.edu Archive Retrieved February 14, 2011.
  168. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 120.
  169. ^ Gilmore, Susan (22 tháng 11 năm 2001). “D.B. Cooper puzzle: The legend turns 30”. The Seattle Times. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2008.
  170. ^ Gunther 1985, tr. 50.
  171. ^ Baumann, L (May 7, 2013): "Man Who Packed DB Cooper's Parachutes ID'd as Woodinville Homicide Victim". Woodinville Patch. Retrieved May 29, 2013
  172. ^ Smith, BA (May 4, 2013): "Update on the murder of Earl Cossey, an analysis of his role in the DB Cooper case". The Mountain News. Retrieved May 29, 2013
  173. ^ Bauman, L (May 12, 2013). Cossey Murder: Woodinville Police Chief Classifies it as Burglary. WoodinvillePatch.com archive. Retrieved October 28, 2013.
  174. ^ Himmelsbach & Worcester 1986, tr. 116.
  175. ^ Slatta, Richard W. (2001). The Mythical West: An Encyclopedia of Legend, Lore and Popular Culture. Qua nhiều năm thì vô số quán bar ở nhiều thànhh phố Mỹ có tên D.B. Cooper's. Năm 2004 bô phim "Without a Paddle" có liên quan tới sự mất tích của D. B. Cooper.

Đọc thêm sửa

  • Tosaw, Richard T. (1984) D.B. Cooper: Dead or Alive?. Tosaw Publishing. ISBN 0-9609016-1-2. (Chứa đầy đủ số sê-ri của tiền chuộc.)
  • Gunther, Max (1985). D. B. Cooper: What Really Happened. Chicago: Contemporary Books. ISBN 0-8092-5180-9.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết) (Dựa trên cuộc phỏng vấn với "Clara", người tìm ra Cooper đang bị thương; được cho là trò bịp của FBI.)
  • Himmelsbach, Ralph P.; Worcester, Thomas K. (1986). Norjak: The Investigation of D. B. Cooper. West Linn, Oregon: Norjak Project. ISBN 978-0-9617415-0-1.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết) (Himmelsbach là cựu nhân viên cấp cao FBI đến khi về hưu năm 1980; "Norjak" là mật mã FBI chỉ vụ không tặc của Cooper.)
  • Rhodes, B and Calame, R. (1991) D.B. Cooper: The Real McCoy. Univ. of Utah Press ISBN 0-87480-377-2. (Summary of the circumstantial case that "copycat" Richard McCoy was D.B. Cooper.)
  • Reid, Elwood (2005). D.B.: A Novel. Anchor Books. ISBN 0-385-49739-3 (Một sản phẩm của sự tưởng tượng, không nhiều người ủng hộ giả thiết này.)
  • Forman, P and Forman, R. (2008) The Legend of D.B. Cooper – Death by Natural Causes. Borders Personal Publishing. ISBN 1-60552-014-4 (Tự truyện của Barbara Dayton, người tuyên bố có liên quan tới vụ không tặc.)
  • Grant, Walter. (2008) D.B. Cooper, Where Are You? Publication Consultants. ISBN 1-59433-076-X (Một truyện giả tưởng.)
  • Nuttall, George C. (2010) D.B. Cooper Case Exposed: J. Edgar Hoover Cover Up? Vantage Press. ISBN 0-533-16390-0
  • Olson, Kay Melchisedech (2010). D.B. Cooper Hijacking: Vanishing Act. Compass Point Books. ISBN 0-7565-4359-2.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Elmore, Gene. (2010) D.B. Cooper: Aftermath. iUniverse. ISBN 1-4502-1545-9 (Self-published work of fiction, interwoven with some of the commonly known facts.)
  • Porteous, Skipp; Blevins, Robert M. (2010). Into the Blast – The True Story of D.B. Cooper. Seattle, Washington: Adventure Books of Seattle. ISBN 978-0-9823271-8-0.Quản lý CS1: ref=harv (liên kết)
  • Gray, Geoffrey. (2011) Skyjack: The Hunt for D.B. Cooper. Crown. ISBN 0-307-45129-1

Liên kết ngoài sửa

Nghe trang này
(2 parts, 40 phút)
 
Các tệp âm thanh này được tạo từ bản phiên bản sửa đổi trang ngày
Lỗi: không cung cấp được ngày tháng
và không phản ánh các chỉnh sửa tiếp theo.