Thụy hiệu

tên hiệu được đặt sau khi qua đời trong văn hóa Á Đông

Thụy hiệu (chữ Hán: 諡號), còn gọi là hiệu bụt hoặc thụy danh theo ngôn ngữ Việt Nam, là danh hiệu mà các vị quân chủ, chư hầu, đại thần, hậu phi, quyền quý, tu sĩ và đạo sĩ ở Đông Á thời cổ đại được chính quyền ban tặng sau khi qua đời, dựa trên công trạng và đạo đức trong suốt cuộc đời của họ. Phong tục này phổ biến ở Trung Quốc, Triều Tiên, Việt NamNhật Bản, mặc dù cũng có ngoại lệ, như các vị vua nước Ngô, nước Việt và nhà Tần trong thời Xuân Thu Chiến Quốc không sử dụng Thụy hiệu.

Thụy hiệu
Tên tiếng Trung
Phồn thể諡號/謚號
Giản thể谥号
Tên tiếng Việt
Chữ Quốc ngữThụy hiệu
Chữ Hán
Tên tiếng Triều Tiên
Hangul
Hanja
諡號
Tên tiếng Nhật
Kanji諡號
Hiraganaしごう / おくりな

Vào thời cổ đại, các danh hiệu của Nghiêu, Thuấn, có thể được xem là hình thức sơ khai của thụy hiệu. Vào thời Trung, Hậu kỳ của nhà Thương, Thụy hiệu bắt đầu hình thành hệ thống và được sử dụng rộng rãi. Vào thời nhà Chu, dựa trên nghiên cứu khảo cổ về các minh văn trên đồ đồng của Tây Chu, phong tục này khoảng xuất hiện từ thời Chu Mục Vương trở đi. Thụy hiệu thường được dùng để tôn xưng các vị đế vương, đại thần, học giả và quý tộc thời cổ; có những danh nhân với thụy hiệu được sử dụng rộng rãi đến mức gần như trở thành biệt danh của họ, như Chư Cát Võ Hầu (Gia Cát Lượng), Hàn Văn Công (Hàn Dũ), Tăng Văn Chính (Tăng Quốc Phiên), Nhạc Võ Mặc (Nhạc Phi).

Thụy hiệu của đế vương thường do lễ quan quyết định, sau đó được vị đế vương kế vị phê chuẩn và công bố, thụy hiệu của bề tôi thì do triều đình ban tặng. Về sau, quyền ban thụy hiệu hoàn toàn thuộc về hoàng đế, quyết định nằm ở “thánh tài”.

Khái niệm

sửa

Việc đặt thụy hiệu có từ lâu, khởi nguồn từ nền văn minh Trung Hoa, và dần dần trở thành một tục lệ hiển nhiên trong văn hóa các nước đồng văn khác. Tuy nhiên, tuy cùng thời điểm nhưng cũng vài quốc gia lại không dùng, như nước Ngônước Việt thời Xuân Thu. Ngoài các quân vương, thụy hiệu còn dùng cho các quan lại đại thần, quý tộc thậm chí Hoàng hậuphi tần.

Sử thần Lê Văn Hưu từng lý giải điều này, được các sử gia đời Hậu LêNgô Sĩ Liên ghi lại trong Đại Việt sử ký toàn thư:

"Thiên tửHoàng hậu khi mới băng hà, chưa chôn vào sơn lăng, thì gọi là Đại Hành hoàng đế, Đại Hành hoàng hậu. Đến khi lăng tẩm đã yên thì hợp bầy tôi bàn xem đức hạnh hay dở để đặt thụy là Mỗ hoàng đế, Mỗ hoàng hậu[1], không gọi là Đại Hành nữa."

Theo giải thích của nhà nghiên cứu Thiều Chửu (Nguyễn Hữu Kha) thì chữ Thụy cũng có nghĩa như sau:

"Tên hèm, lúc người sắp chết người khác đem tính hạnh của người sắp chết ấy so sánh rồi đặt cho một tên khác để khi cúng giỗ khấn đến gọi là thụy. Ta gọi là tên cúng cơm."

Vua chúa

sửa

Bắt đầu được sử dụng từ nhà Chu, thụy hiệu có lịch sử 800 năm lâu dài hơn miếu hiệu. Thời Tam Hoàng Ngũ Đế đến nhà Hạ, nhà Thương chưa có phép đặt thụy hiệu. Vì thụy hiệu được đặt cho những người quá cố, nó thường được đặt bởi người kế vị của người chết.[2] Phép đặt thụy hiệu thường do người sau căn cứ vào hành trạng của người trước để đặt cho một hay nhiều chữ phù hợp.[3]

Một số vua chúa không có thụy hiệu, có thể vì người kế vị không chịu hay chưa có cơ hội đặt tên. Các vua có nhiều võ công thường được đặt thụy là Vũ Đế (Hán Vũ Đế, Tấn Vũ Đế...), Vũ Vương (Chu Vũ Vương, Sở Vũ Vương), Vũ Công (Tấn Vũ Công, Trịnh Vũ Công)...; các vua nổi về giáo hóa được tôn là Văn Đế (Tùy Văn Đế, Hán Văn Đế), Văn Vương (Chu Văn Vương, Sở Văn Vương), Văn Công (Trịnh Văn Công, Tống Văn Công...). Vua độc ác thường được gọi là Lệ Vương, Lệ Công (Chu Lệ Vương, Mẫn Lệ công – thụy hiệu của vua quỷ Lê Uy Mục khi mới mất, sau này Lê Chiêu Tông đổi là Uy Mục); vua ngu tối thì đặt thụy là U vương, U công (Chu U Vương, Trần U Công...)

Từ thời nhà Chu đến đời nhà Tùy, các vua chúa thường có thụy hiệu ngắn 1–2 chữ, như Thành Vương, Uy Vương, Tuyên Huệ công, Hoàn Huệ Vương,... Nhưng từ thời nhà Đường, các thụy hiệu được đặt dài với nhiều chữ và do đó người sau khó nhớ hơn. Đường Cao Tổ Lý Uyên được tôn thụy hiệu là Thần Nghiêu Đại Thánh Đại Quang Hiếu hoàng đế, Trần Thái Tông được tôn thụy hiệu là Thống Thiên Ngự Cực Long Công Hậu Đức Hiền Công Hựu Thuận Thánh Văn Thần Vũ Nguyên Hiếu hoàng đế, do đó người ta lại lấy miếu hiệu để gọi vị vua đó cho thuận tiện...

Nhật Bản từ thời kỳ Minh Trị, vua chỉ đặt một niên hiệu, sau khi qua đời niên hiệu này cũng trở thành thụy hiệu của ông. Chẳng như vua Mutsuhito, đặt niên hiệu là Minh Trị, sau khi qua đời năm 1912 ông được tôn thụy hiệu là Minh Trị Thiên hoàng.

Các trường hợp đặc biệt

sửa

Các vua mất nước thường không có thụy hiệu (và cả miếu hiệu), như Mạc Mậu Hợp, Nguyễn Quang Toản hay thụy hiệu xấu như Ngọa Triều của vua Lê Long Đĩnh thời nhà Tiền Lê. Trường hợp này thường xảy ra với các vua các triều đại mất nước do chiến tranh tiêu diệt lẫn nhau, triều đại sau diệt triều đại trước không đặt thụy hiệu cho vị vua mà mình giành ngôi.

Một số trường hợp được đặt tên thụy bằng Mạt Đế, nghĩa là hoàng đế cuối cùng, như Hậu Lương Mạt Đế Chu Hữu Trinh, Đông Ngô Mạt Đế Tôn Hạo. Một số trường hợp "nhường ngôi" trong hòa bình (thực chất là ép nhường), các vua cuối cùng vẫn có thụy hiệu như Hán Hiến Đế (Lưu Hiệp), Tào Ngụy Nguyên Đế (Tào Hoán), Đông Tấn Cung Đế, Lý Chiêu Hoàng, Lê Cung Hoàng...

Trường hợp Lê HoànViệt Nam không có thụy hiệu. Tên gọi Lê Đại Hành ngày nay của ông không phải thụy hiệu và cũng không phải là miếu hiệu. Lê Văn Hưu lý giải:

Thiên tử... khi mới băng, chưa chôn vào sơn lăng, thì gọi là Đại Hành hoàng đế (nghĩa là vua sắp đi xa). Đến khi lăng tẩm đã yên thì hợp bầy tôi bàn xem đức hạnh để đặt thụy là mỗ hoàng đế..., không gọi là Đại Hành nữa. Lê Đại Hành thì lấy Đại Hành làm thụy hiệu mà truyền đến ngày nay là làm sao? Vì Ngọa Triều là con bất hiếu, lại không có bề tôi Nho học để giúp đỡ bàn về phép đặt thụy cho nên thế.

Không dùng thụy hiệu

sửa

Triều đại không dùng thụy hiệu, ngay cả khi phép đặt thụy đã tồn tại, là nhà Tần. Theo Sử ký, Tần Thủy Hoàng cho rằng phép đặt hiệu bụt của nhà Chu là "con bàn bạc về cha, bề tôi bàn luận về vua, thật là vô phép". Do đó vua Tần bỏ phép đặt hiệu bụt mà tính theo số: từ Thủy Hoàng tới Nhị Thế, Tam Thế... tới Vạn Thế.

Trong Phật giáo

sửa

Trong Phật giáo, thuỵ hiệu là tên hiệu của người đã mất, vì cảm niệm đức hạnh của họ mà người đời sau truy tặng. Đối tượng được tặng thuỵ hiệu: Trên từ vua chúa, công khanh, dưới đến những người có đức hạnh. Thông thường, thuỵ hiệu được ban tặng cho các vị Cao tăng, Đại sư, Bồ Tát, Quốc sư, Thiền sư, Hoà thượng, Pháp sư, Thượng nhân...

Tiết Bách Trượng Hoài Hải Thiền sư trong Cảnh Đức Truyền đăng lục q. 6 ghi:

元和九年正月十七日歸寂。壽九十五。長慶元年敕諡大智禪師。塔曰大寶勝輪。
Vào ngày 17 tháng giêng, niên hiệu Nguyên Hoà thứ 9 (814) Sư thị tịch, thọ 95 tuổi. Niên hiệu Trường Khánh thứ nhất (821) được vua ban thuỵ hiệu là Đại Trí Thiền sư, tháp hiệu Đại Bảo Thắng Luân.

Chủng loại

sửa

Các loại thụy hiệu có thể được phân thành các loại chính như sau:

  • Thượng Thụy (Loại tôn vinh): dùng để tôn vinh công đức và thành tựu người được phong thụy, thường là những lời ca ngợi cao nhất. Ví dụ: "Văn" (文) chỉ những người có tài “kinh lược trời đất”, hoặc có đức hạnh “đạo đức thâm hậu”, “chăm chỉ học hỏi”; "Võ" (武) chỉ những người có công lớn trong việc mở mang lãnh thổ, khai sáng sự nghiệp; "Tráng" (壯) và "Cương" (剛) thường dùng để ca ngợi những võ tướng đã lập chiến công hiển hách khi còn sống. Truyền thống cho rằng, hai từ "Văn" và "Võ" được coi là những lời ca ngợi cao nhất.
  • Trung Thụy (Loại đồng cảm): chủ yếu bày tỏ sự đồng cảm với hoàn cảnh bất hạnh hoặc cuộc đời ngắn ngủi người được phong thụy. Ví dụ: "Mẫn" (愍) chỉ “gặp khó khăn khi đất nước gặp nguy nan”, như Lê Mẫn Đế Lê Chiêu Thống và Mẫn Lệ công Lê Uy Mục; "Hoài" (懷) chỉ “nhân từ nhưng đoản mệnh”, như Hoài Trạch Công Thành Thái.
  • Hạ Thụy (Loại phê phán): dùng để phê phán lỗi lầm hoặc hành vi không tốt người được phong thụy. Ví dụ: "Dương" (煬) chỉ “ham mê hưởng lạc, xa rời lễ nghĩa”, như Tùy Dương Đế; "Lệ" (厲) chỉ “bạo ngược, vô thân” hoặc không tốt lành, như Lệ Đức hầu Lê Nghi Dân; "Hoang" (荒) chỉ “ham mê hưởng lạc, lười nhác chính sự”, như Lỗ Hoang Vương Chu Đàn; "U" (幽) chỉ “ngăn cản, không thông suốt”, như Tấn U Công; "Linh" (靈) chỉ “loạn lạc mà không bị tổn hại”, như Linh Ẩn vương Lê Tương Dực.
  • Tư Thụy: bắt đầu xuất hiện vào cuối thời Chu, thịnh hành vào thời Hán, do thân thích, môn sinh, hoặc thuộc hạ người đã khuất quyết định.

Ban đầu, Thụy pháp chỉ có “Mỹ Thụy” (thụy hiệu đẹp) và “Bình Thụy” (thụy hiệu trung lập), không có “Ác Thụy” (thụy hiệu xấu). Sự phân biệt thụy hiệu tốt xấu bắt nguồn từ sau thời Tây Chu Cộng Hòa. Ví dụ, Chu Lệ Vương bị phong thụy là "Lệ" do bạo chính. Sau khi Hán Vũ Đế tôn sùng Nho học, thụy hiệu các đế vương phần lớn do bề tôi quyết định, và để tránh nói thẳng về hành vi xấu, thụy hiệu đế vương thường là Mỹ Thụy.

Một số Mỹ Thụy ban đầu mang ý nghĩa tốt đẹp, nhưng do số phận đặc biệt của một vị hoàng đế nào đó, ý nghĩa của chúng đã thay đổi. Ví dụ: "Huệ" (惠) ban đầu là Mỹ Thụy, nhưng sau khi Hán Huệ ĐếTấn Huệ Đế trị vì, nó đã trở thành Bình Thụy; "Hiến" (献) sau khi được dùng cho Hán Hiến Đế, nó trở thành thụy hiệu thường dùng cho những vị vua mất ngôi; "Chiêu" (昭) trước thời Chiến Quốc, nó là Ác Thụy, nhưng sau thời Chiến Quốc, nó trở thành Mỹ Thụy; "Trung Hiến" (忠献) vào thời Tống, đây là thụy hiệu cao nhất cho thần tử, nhưng vào thời Minh, do ảnh hưởng Tần CốiSử Di Viễn, nó không còn được sử dụng nữa.[4]

Các chữ thụy hiệu

sửa

Trong cuốn Dịch Châu Thư (逸周书), phần "Thụy pháp giải" được coi là một trong những tiêu chuẩn đầu tiên về việc sử dụng chữ trong thụy hiệu. Người ta truyền rằng, phần này do Chu Công sáng tác và đã được áp dụng rộng rãi qua các thế hệ sau. Đến thời Đông Hán, Thái Ung trong "Đế Thụy" đã giải thích chi tiết hơn về các quy tắc sử dụng chữ trong thụy hiệu. Dưới đây là một số giải thích chính:

Ẩn (隐) chỉ việc làm trái ý nhưng không thành công, tức là không đạt được mục tiêu; Hoàng (皇) chỉ việc trấn an dân chúng, làm cho pháp luật nghiêm minh; Nghiêu (尧) chỉ việc phát huy điều thiện, truyền lại đức thánh; Thuấn (舜) chỉ lòng nhân từ, thánh đức rực rỡ, sáng suốt; Kiệt (桀) chỉ việc đối xử tàn ác với dân chúng, tội lỗi chồng chất; Trụ (纣) chỉ việc tàn hại lẽ phải, làm hại điều thiện; Hiếu (孝) chỉ lòng nhân từ, yêu thương và hiếu thảo với cha mẹ; Huệ (惠) chỉ việc yêu dân, thích ban phát và giúp đỡ; Tuyên (宣) chỉ đức thánh thiện và sự đồng nhất trong hành động; Chiêu (昭) chỉ danh tiếng vang xa; Võ/Vũ (武) chỉ việc dẹp loạn, lập công lớn; Hiến (献) chỉ sự thông minh, trí tuệ xuất chúng; Ý (懿) chỉ lòng nhân từ, tính ôn hòa và đức hạnh cao đẹp; Mục (穆) chỉ việc truyền bá đức hạnh, giữ gìn chính nghĩa; Nguyên (元) chỉ việc dùng nhân nghĩa cảm hóa dân chúng; Thần (神) chỉ chính sách nhân từ, ổn định và cai trị hiệu quả; Bình (平) chỉ việc duy trì trật tự và kỷ luật, quản lý đúng đắn; Linh (灵) chỉ việc giữ vững không suy yếu dù gặp phải hỗn loạn; Minh (明) chỉ việc bảo vệ dân chúng và kính trọng người cao tuổi; Tương (襄) chỉ việc mở rộng lãnh thổ và đức hạnh sáng rõ; Khuông (匡): Chỉ tâm chí vững chắc và lòng bao dung rộng lớn; Định 定 (Định): Chỉ việc suy nghĩ sâu xa và yêu thương dân chúng; Cung (恭) chỉ việc biết lỗi và có thể sửa chữa; Thanh (声) chỉ việc không sinh ra tại quốc gia của mình (thường chỉ việc chết bất đắc kỳ tử ở nơi khác); Giản (简) chỉ đức hạnh không thay đổi, không bao giờ chểnh mảng; Kính (敬) chỉ sự chăm chỉ, cần mẫn, cẩn thận không ngừng nghỉ; Trinh (贞) chỉ việc giữ mình trong sạch, kiên định không dao động; Tĩnh (靖) chỉ đức hạnh ôn hòa, yêu thương dân chúng; Khang (康) chỉ sự ổn định, an vui và cai trị dân chúng tốt đẹp; Hi (僖) chỉ sự cẩn trọng, sợ hãi không dám làm việc sai trái; Đạo (悼) chỉ việc mất sớm khi còn đang ở tuổi thanh xuân; Thuận (顺) chỉ lòng nhân từ, hòa nhã với mọi người; Trang (庄) chỉ sự dũng cảm, quyết tâm và chuyên tâm với sự nghiệp; Ai (哀) chỉ lòng cung kính, nhân từ nhưng mất sớm; Mẫn (愍) chỉ việc qua đời khi đất nước đang gặp khó khăn; Miểu (繆) chỉ việc danh không đúng với thực tế; U (幽) chỉ việc bế tắc, không thông suốt, mất đi khả năng phán đoán; Lệ (厉) chỉ sự tàn bạo, vô tình; Cảnh (景) chỉ chí hướng lớn lao, lập mưu đồ lớn; Hoàn (桓) chỉ việc mở rộng lãnh thổ và thôn tính các nước khác; Văn (文) chỉ việc quản lý đất nước có văn hóa, có võ công; Hoài (怀) chỉ việc giữ gìn chính nghĩa, phát huy điều thiện; Thương (殇) chỉ việc mất sớm khi chưa đạt được mục tiêu; Dương (煬) chỉ việc bỏ lễ nghĩa, xa rời dân chúng; Hề (㩦) chỉ việc lơ là công vụ, không chăm lo quản lý; Kỳ (祈) chỉ việc cai trị không đầy đủ.

Các thời kỳ sau bổ sung thêm các chữ dùng trong thụy hiệu.

Hệ thống thụy hiệu Việt Nam

sửa

Chế độ thụy hiệu trong lịch sử Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển kéo dài, từ thời Lý Nam Đế đến thời Nguyễn, với các quy tắc và hình thức thụy hiệu khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử.

Vào thời kỳ trước khi nhà thành lập, hình thức thụy hiệu chủ yếu sử dụng một chữ, như "Nam Đế", "Tiên Vương"; cũng có trường hợp dùng hai hoặc ba chữ như "Đại Thắng Minh Hoàng Đế".

Đến thời Lý thụy hiệu từ một chữ hoặc hai chữ dần phát triển thành ba chữ, thậm chí nhiều hơn như thụy hiệu "Hiếu Từ Thánh Thần Văn Vũ Hoàng Đế", "Quảng Văn Sùng Hiếu Khâm Minh Văn Vũ Hoàng Đế". Trong thời nhà Lý các thụy hiệu đa phần sẽ có chữ Hiếu.

Vào thời nhà Trần về sau số chữ trong thụy hiệu không cố định, được sử dụng một cách chặt chẽ hơn, chủ yếu nêu lên công trạng người được phong thụy hiệu. Ví dụ: Trần Thái Tông có thụy hiệu "Thống Thiên Ngự Cực Long Công Mậu Đức Hiển Hòa Hựu Thuận Thần Văn Thánh Vũ Nguyên Hiếu Hoàng đế" trong đó "Thống Thiên Ngự Cực" (統天御極) nghĩa là thống nhất thiên hạ, cai trị đỉnh cao; "Long Công Mậu Đức" (隆功茂德) công lao lớn, đức hạnh dồi dào; "Hiển Hòa Hựu Thuận" (顯和佑順) hiển thị sự hòa hợp, bảo vệ và thuận theo; "Thần Văn Thánh Võ" (神文聖武) có tài văn và tài võ xuất chúng; "Nguyên Hiếu" (元孝) đạo hiếu cơ bản, đặt nền tảng. Hay thụy hiệu Trần Hưng Đạo là "Nhân Võ" (仁武) ca ngợi khả năng lãnh đạo không chỉ bằng sự nhân từ và đạo đức mà còn bằng sức mạnh và tài năng quân sự.

Thông Thụy

sửa

Thông thụy là việc thiết lập thụy hiệu chung cho một nhóm người có địa vị nhất định. Triều đại Nguyễn cũng đã thiết lập thông thụy cho các thành viên hoàng tộc với các tước vị khác nhau, trừ khi có cống hiến đặc biệt, nếu không sẽ không được ban thêm mỹ thụy. Vào tháng 9 năm Tự Đức thứ 26 (1873), triều đình Nguyễn đã quy định thông thụy cho các hoàng thân, công chúa, và các cấp bậc trong cung. Sau khi hoàng tử, công chúa và các cấp bậc trong cung qua đời, thụy hiệu sẽ được ban theo cấp bậc tương ứng, trừ khi có cống hiến đặc biệt, sẽ không được triều đình ban thêm mỹ thụy.[5]

  • Thân vương: Thụy "Đoan Cung"
  • Quận vương: Thụy "Trang Cung"
  • Thân công: Thụy "Cung Túc"
  • Quốc công: Thụy "Cung Mục"
  • Quận công: Thụy "Cung Lượng"
  • Công chúa: Thụy "Mỹ Thục"
  • Phi bậc nhất: Thụy "Huy Thuận"
  • Phi bậc nhì: Thụy "Ý Thuận"
  • Tần bậc ba: Thụy "Nhã Thuận"
  • Tần bậc bốn: Thụy "Nhàn Thuận"
  • Tần bậc năm: Thụy "Lệ Thuận"
  • Tiệp dư bậc sáu: Thụy "Nhu Thuận"
  • Quý nhân bậc bảy: Thụy "Trang Thuận"
  • Mỹ nhân bậc tám: Thụy "Cẩn Thuận"
  • Tài nhân bậc chín và những người không thuộc chín bậc trong cung: Thụy "Thục Thuận"

Xem thêm

sửa

Tham khảo

sửa
  1. ^ Mỗ (某): một đại từ không xác định, ý ở đây là gọi Hoàng đế-Hoàng hậu đó theo tên sau khi đã đặt.
    Ví dụ như Trưởng Tôn hoàng hậu, khi vừa qua đời người ta sẽ gọi bà là "Đại Hành hoàng hậu", sau đó khi đã ban bố thụy hiệu Văn Đức, người ta sẽ chuyển gọi bà là Văn Đức hoàng hậu
  2. ^ Trong Dật Chu Thư · Thụy Pháp Giải (《逸周書·諡法解》): "Chu Công Đán, đại sư vọng, trợ giúp Vua Vũ (Vương Phát). Sau khi ban hành hiến định và nhận lệnh tại cánh đồng Mục Chi. Khi chuẩn bị an táng, ông đã sáng chế ra thụy hiệu. Thụy hiệu là dấu tích công trạng".
  3. ^ Thái Nhã Văn, Nghiên cứu về "Dật Chu Thư · Thụy Pháp Giải", Luận văn Thạc sĩ, Khoa Giáo dục Ngôn ngữ, Đại học Quốc lập Đài Nam, Đài Nam, 1994.
  4. ^ “Đại Minh Thế Tông Túc Hoàng Đế Thực Lục quyển 566”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2021. Đã bỏ qua tham số không rõ |dead-url= (gợi ý |url-status=) (trợ giúp):…上在位四十五年,寿六十。寻上尊谥为:钦天履道英毅圣神宣文广武洪仁大孝肃皇帝;庙号:世宗…
  5. ^ Năm Tự Đức thứ 26 (1873) tháng Chín, triều Nguyễn quy định về thụy hiệu cho hoàng thân, công chúa và các bậc cung giai. Sau khi hoàng tử, công chúa và các bậc cung giai qua đời, họ sẽ được ban thụy hiệu tương ứng với tước vị và phẩm hàm, trừ khi có công lao đặc biệt, nếu không sẽ không được triều đình đặc biệt ban tặng mỹ thụy.
  • Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
  • Từ điển Thiền Tông Hán Việt. Hân Mẫn & Thông Thiền biên dịch. TP HCM 2002.
  • Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Bảng các chữ viết tắt
bo.: Bod skad བོད་སྐད་, tiếng Tây Tạng | ja.: 日本語 tiếng Nhật | ko.: 한국어, tiếng Triều Tiên |
pi.: Pāli, tiếng Pali | sa.: Sanskrit संस्कृतम्, tiếng Phạn | zh.: 中文 chữ Hán