Yanagihara Naruko

nữ quan của Hoàng thất Nhật Bản

Yanagiwara Naruko (柳原愛子 (Liễu Nguyên Ái Tử)?), còn được gọi là Sawarabi no Tsubone (Tảo Bích Cục) (26 tháng 6 năm 1859 - 16 tháng 10 năm 1943), là một nữ quan của Hoàng thất Nhật Bản. Bà là phi tần của Thiên hoàng Minh Trị, mẹ ruột của Thiên hoàng Đại Chính [1] và cũng là vị phi tần cuối cùng hạ sinh người thừa kế ngai vàng của Nhật Bản.

Yanagiwara Naruko
Thông tin chung
Sinhngày 26 tháng 6 năm 1859
Mất16 tháng 10 năm 1943(1943-10-16) (84 tuổi)
Phối ngẫuThiên hoàng Minh Trị
Hậu duệShigeko, Princess Ume
Yukihito, Prince Take
Thiên hoàng Đại Chính
Thân phụYanagihara Mitsunaru

Yanagihara Naruko sinh ra ở Kyoto và là con gái thứ hai của Yanagihara Mitsunaru (柳原光愛, Liễu Nguyên Quang Ái, 1818 -1885), người giữ cấp bậc Trung Nạp ngôn trong triều đình và sau đó được bổ nhiệm làm Đại Nạp ngôn. Gia tộc Yanagihara (Liễu Nguyên) thuộc dòng họ Reizei (Liễu Tuyền) của gia tộc Fujiwara (Đằng Nguyên). Anh trai của bà, Bá tước[2] Yanagihara Sakimitsu (柳原前光, Liễu Nguyên Tiền Quang, 4 tháng 5 năm 1850 - 2 tháng 9 năm 1894), đã chiến đấu ở phía triều đình trong chiến tranh Boshin, sau đó trở thành phó tổng trấn Tōkaidō và sau đó là thống đốc tỉnh Yamanashi. Bước vào ngành ngoại giao, ông đã ký hiệp ước hữu nghị Trung-Nhật sau Chiến tranh Trung-Nhật thứ nhất, sau được phong làm bá tước và trở thành ủy viên hội đồng cơ mật, giúp soạn thảo Bộ Luật Hoàng gia trước khi ông qua đời ở tuổi 44.

Thị nữ Naruko được miêu tả là một phụ nữ thông minh, duyên dáng và dịu dàng, được mọi người trong hậu cung ngưỡng mộ.[3] Bà được ghi nhận là một nhà thơ và nhà thư pháp xuất sắc. Bà tiến cung vào năm 1870 với tư cách là thị tỳ cho Thái hậu Eishō, và được phong tước gon no tenji (nữ quan) vào ngày 20 tháng 2 năm 1873.[3] Cả Naruko và Thiên hoàng Minh Trị đều là hậu duệ của gia tộc Ōgimachisanjō; cả hai đều là chút của cụ ông là Ogimachisanjō Sanetomo (1748 -1785), một cận thần cấp cao trong triều đình, chính vì thế mà bà và Thiên hoàng cũng là anh em họ đời thứ ba.[4]

Vào ngày 21 tháng 1 năm 1875, bà hạ sinh người con đầu lòng là Nội Thân vương Umenomiya Shigeko (Mai Cung Huân Tử Nội thân vương), tại Cung Thanh Sơn, nhưng tiểu công chúa đã chết vì viêm màng não chỉ một năm sau đó, vào ngày 8 tháng 6 năm 1876. Vào ngày 23 tháng 9 năm 1877, bà hạ sinh Thân vương Takenomiya Yukihito, (Kiến Cung Kính Nhân thân vương), về sau chết yểu vì viêm màng não vào ngày 26 tháng 7 năm 1878. Vào ngày 31 tháng 8 năm 1879, bà hạ sinh người con thứ ba và là người duy nhất sống sót đến tuổi trưởng thành, chính là Thiên hoàng Taishō. Việc sinh nở kéo dài và cực kỳ khó khăn khiến bà trở nên cuồng loạn, khóc lóc và la hét trong suốt quá trình sinh nở. Vào ngày 6 tháng 9, Thiên hoàng đặt tên cho con trai mình là Yoshihito, sau đó phong làm Minh Cung Gia Nhân thân vương (Haru-no-miya). Do việc sinh nở khó khăn, sức khỏe của bà đã không tốt trong một thời gian. Minh Cung Gia Nhân thân vương bị viêm màng não ngay sau khi sinh nên cuộc sống của ông gặp nhiều khó khăn cho đến khi hồi phục vào cuối tháng 12. Cũng vì sức khỏe của Naruko bị ảnh hưởng sau khi sinh con trai, bà không thể tiếp tục phục vụ hoàng đế với tư cách là một nữ quan nữa.

Năm 1902, bà chính thức được phong làm phi tần. Trong những năm cuối đời, bà đã được trao một số danh hiệu cao quý để công nhận việc tiếp tục ở trong dòng dõi hoàng gia, mặc dù bà vẫn bị khiển trách vì sức khỏe ngày càng kém của con trai. Tuy nhiên, bà đã được cho phép có mặt và chứng kiến cái chết của con trai bà, Thiên hoàng Taisho vào tháng 12 năm 1926.

Năm 1941, chắt gái của Naruko là Takagi Yuriko đã kết hôn với Hoàng tử Mikasa, cháu nội của bà.[5] Thị nữ Naruko qua đời vào ngày 16 tháng 10 năm 1943, ở tuổi 84, dưới triều đại của cháu trai là Thiên hoàng Chiêu Hòa, sống lâu hơn con trai của mình là vị Thiên hoàng tiền nhiệm mười bảy năm. Bà đã được chôn cất tại Yūtenji, Nakameguro (5-chome, Meguro-ku) ở Tokyo.

Phong tặng sửa

  • Grand Cordon của Huân chương Thụy Bảo (10 tháng 5 năm 1925; Hạng hai: 1 tháng 12 năm 1915)
  • Grand Cordon của Huân chương Vương miện quý giá (11 tháng 2 năm 1940)
  • Tứ vị (29 tháng 11 năm 1892)
  • Cấp ba cao cấp (tháng 7 năm 1913)
  • Nhị vị (ngày 1 tháng 12 năm 1915)
  • Cấp bậc thứ hai (8 tháng 5 năm 1919)
  • Nhất vị (16 tháng 10 năm 1943; truy tặng)[4]

Chú thích sửa

  1. ^ Keene 2002, tr. 320.
  2. ^ The Directory & Chronicle for China, Japan, Corea, Indo-China, Straits Settlements, Malay States, Sian, Netherlands India, Borneo, the Philippines., Hongkong Daily Press Office, 1888, p. 322.
  3. ^ a b Keene 2002
  4. ^ a b “柳原家 (名家) (Yanagihara genealogy)”. Reichsarchiv. Truy cập ngày 4 tháng 9 năm 2017.
  5. ^ “高木氏 (Takagi genealogy)”. Reichsarchiv. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2018. (tiếng Nhật)