Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
clean up, replaced: → (3) using AWB
Dòng 4:
| Giám mục của = Giám mục Chánh toà Tiên khởi <br> [[Giáo phận Nha Trang]] (1960 - 1966) <br> Giám mục Tiên khởi Giáo phận Tông toà <br> Nha Trang (1957 - 1960) <br> Giám mục Tông toà [[Giáo phận Qui Nhơn]] <br> (1943 - 1957)
| hình = GM Paul Raymond - Marie - Marcel Piquet Lợi.png
| khẩu hiệu = “Ut in omnibus maxime ametur Deus” <br> (Để trong mọi sự Thiên Chúa được hết lòng yêu mến)
| giáo phận = Giáo phận Nha Trang
| tòa Giám mục = Nha Trang
Dòng 32:
==Tiểu sử==
===Thiếu thời và tu tập===
Ông sinh ngày [[27 tháng 08]] năm [[1888]] tại Notre Dame des Champs, Paris, Pháp.<ref name= hd>[http://www.hdgmvietnam.org/chan-dung-linh-muc-viet-nam-duc-cha-paul-marcel-piquet-loi/1137.43.13.aspx Đức cha Paul Marcel PIQUET LỢI (1888–1966) Mục tử nhiệt thành, khó nghèo và nhân hậu]</ref> Ông là người con thứ 7 trong gia đình Công giáo có 8 người con. Mẹ ông qua đời lúc ông mới sáu tuổi. <ref name= ca/>
 
Năm [[1898]], Marcel Piquet nhập học tại Tiểu chủng viện Notre Dame des Champs.<ref name= ca/>
 
Ngày [[06 tháng 06]] năm 1908, <ref name= nt>{{chú thích web|url=http://giaophannhatrang.org/index.php?nv=news&op=Giao-Phan-Nha-Trang/Thanh-le-gio-lan-thu-49-Duc-Giam-Muc-tien-khoi-Giao-phan-Nha-Trang-Duc-Cha-Paul-Marcel-PIQUET-LOI-1888-1966-9321| tiêu đề=Thánh lẽ giỗ lần thứ 49 Đức Giám Mục tiên khởi Giáo phận Nha Trang, Đức Cha Paul Marcel PIQUET LỢI (1888–1966)|ngày truy cập=29-07-2015}}</ref> ông xác quyết ơn gọi truyền giáo của mình trong thỉnh nguyện thư gởi cha Giám đốc Đại chủng viện Thừa sai Bièvres khi sắp kết thúc lớp Terminal (tương đương lớp 12) như sau:
:''Con không có những tài năng lớn lao, cũng không có những nhân đức cao cả. Nhưng con biết rằng Chúa Nhân Lành gọi con trong Ơn gọi Truyền giáo. Hành trang đức hạnh con mang theo không có những phẩm tính cao quí, nhưng những gì con có, con hiến dâng tất cả. Đó là thiện chí của con. Ước muốn quyết liệt của con là sau này trở nên một công cụ hữu dụng trong tay các Bề Trên.''<ref name= hd/>
 
Ngày [[15 tháng 09]] năm [[1908]], ông gia nhập Đại chủng viện Thừa Sai Bièvres. <ref name= hd/>
 
Thời Tiểu chủng viện cũng như Đại Chủng Viện, Ban Giám đốc vẫn nhận xét ông là một con người khổ chế, sốt sắng, đức hạnh, thông minh, trung thành với bổn phận và nhiệt thành.<ref name= ca/>
 
===Linh mục===
Ngày [[29 tháng 07]] năm [[1912]], thầy Marcel lãnh chức linh mục và ngày [[27 tháng 11]] lên đường truyền giáo cho địa phận Đông Đàng Trong (Qui Nhơn), Việt Nam. <ref name= ca />
 
Ngày [[30 tháng 07]] năm 1912, Tân Linh mục Marcel Piquet dâng Thánh Lễ mở tay tại“ Saint-Hippolyte” nơi người anh Linh Mục Pierre của ông làm phó xứ trước khi trở thành Linh mục Chánh xứ giáo xứ Lilas. Đây cũng chính là cuộc hội ngộ cuối cùng với người cha già, các anh chị và mọi người thân yêu trong gia đình, các ân nhân và bằng hữu để lên đường truyền giáo.<ref name= nt />
 
Ngày [[29 tháng 12]] năm 1912, Ông đặt chân lên miền truyền giáo Qui Nhơn<ref name= ca/> và được Giám mục Grangeon, Giám mục Tông Toà Qui Nhơn, đặt tên là Lợi và được gửi đến Linh mục P. Tardieu, Linh mục sở Hội Đức, cách Qui Nhơn 90 &nbsp;km về phía Bắc, để học tiếng Việt và phong tục địa phương hầu dễ dàng thích nghi với môi trường mới trong công tác thừa sai.<ref name= nt />
 
Từ năm 1913 đến năm 1915, ông là Linh mục Phó Xứ Đồng Quả. <ref name= hd />
 
Năm 1915, ông nhập ngũ với nghiệp vụ y tá nhưng sớm giải ngũ vì lý do sức khoẻ.<ref name= ca />
 
Tháng 09 năm 1916 ông thành Giám đốc kiêm giáo sư Triết Đại chủng viện Đại An, Qui Nhơn. <ref name= hd />
 
Từ năm [[1924]] đến năm [[1927]], ông là Linh mục Chánh xứ Dinh Thủy, Ninh Thuận. <ref name= ca/> Giáo dân vùng Ninh Thuận vẫn quen thấy ông trên cỗ xe ngựa, thường xuyên thăm viếng bệnh nhân và giáo dân. <ref name= ca/>
 
Từ năm [[1928]] đến năm [[1943]], ông là Linh mục Chánh xứ Hộ Diêm, Ninh Thuận. Trong thời gian đó, ông xây dựng nhà thờ Hộ Diêm khang trang lộng lẫy theo kiến trúc gothic và xúc tiến việc khẩn hoang, xây cất các nhà thờ cho các họ đạo lân cận như: Cà Đú, Gò Đền, Rừng Lai, Phước An. Ông cũng thành lập “Hội con Đức Mẹ” và Hội này sau đó nhân rộng trong nhiều giáo xứ khác của giáo phận. Ông không chỉ chăm lo đời sống đức tin của các giáo hữu mà quan tâm cải thiện vấn đề dân sinh, tiếp tục công trình của các vị giám mục tiền nhiệm như: khai hoang lập ấp, dẫn thủy nhập điền, nâng cao mức sống người nghèo,.… Hầu hết những người đến làm ăn trên vùng đất mới này lần lượt gia nhập đạo Công giáo, tạo nên những xóm đạo gần như toàn tòng (Cà Đú, Gò Đền, Rừng Lai, Tầm Chưởng).<ref name= ca>{{chú thích web|url=http://www.vietcatholic.net/News/Html/74128.htm |tiêu đề=Chân dung Linh Mục Việt Nam: Đức cha Paul Marcel PIQUET LỢI (1888–1966)|ngày truy cập=29-07-2015}}</ref>
Dòng 63:
 
===Giám mục===
Ngày [[11 tháng 11]] năm [[1943]], ông được bổ nhiệm Đại diện Tông Tòa Giáo phận Qui Nhơn. Ngày [[18 tháng 01]] năm [[1944]], ông được tấn phong Giám mục tại nhà thờ Chính toà Qui Nhơn, do Giám mục Drapier, Khâm Sứ Toà Thánh. Trong thời gian chiến tranh ly loạn, ông vẫn thăm viếng mục vụ khắp nơi trong giáo phận. Khi chủng viện Làng Sông – Qui Nhơn không hoạt động được, ông thành lập tạm thời Chủng viện Tấn Tài (1946-1952), rồi sau đó là Chủng viện Nha Trang tại địa điểm 22 Duy Tân, Nha Trang (1952 -1958) nay là Tòa Giám mục cho chủng sinh của Nha Trang.<ref name= ca/>
 
Ngày [[05 tháng 07]] năm [[1957]], Tòa Thánh thành lập Giáo phận Tông tòa Nha Trang và cử ông làm Giám mục đầu tiên.<ref name= ca/>
 
Ngày [[24 tháng 11]] năm [[1960]], Toà Thánh thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, Giáo phận Nha Trang được nâng lên thành Giáo phận Chính toà.<ref name= ca/> Ngày [[23 tháng 06]] năm [[1961]], ông nhậm chức Giám mục Chính tòa Giáo phận Nha Trang với khẩu hiệu: “Ut in omnibus maxime ametur Deus” (Để trong mọi sự Thiên Chúa được hết lòng yêu mến) và huy hiệu Chiên Con cầm cờ chiến thắng.<ref name= ca/>
 
Chín năm trong cương vị giám mục tiên khởi của Giáo phận Nha Trang, ông đã tạo lập được những cơ sở nền tảng cho sự phát triển Giáo phận. Ông di chuyển trụ sở Dòng Thánh Giuse về Nha Trang (1954), chọn Đức Maria Vô Nhiễm làm quan thầy Giáo phận, rồi năm 1958, thành lập Tiểu chủng viện Sao Biển (Bổn mạng là Sinh nhật Đức Mẹ) và thành lập Dòng Khiết Tâm Đức Mẹ (bổn mạng Trái tim vẹn sạch Đức Mẹ). Ông cũng tạo thuận lợi cho Dòng Chúa Cứu Thế hiện diện trên địa bàn giáo phận (1959), xây dựng Đan viện Cát Minh và mời các đan sĩ về Nha Trang (1960) làm hậu thuẫn cho công cuộc truyền giáo. <ref name= ca/>
 
===Qua đời===
Dòng 76:
Ngày [[07 tháng 07]] năm 1966, chứng bướu độc ở thận đột biến nguy kịch.<ref name= nt />
 
Ngày [[11 tháng 07]] năm [[1966]], ông qua đời tại Sài Gòn, thọ 78 tuổi. Linh cữu ông được quàn tại Nhà thờ Chính Tòa Sài Gòn 3 ngày cho giáo dân Sài Gòn đến viếng. <ref name= ca /> Ngày [[14 tháng 07]], Giám mục Palmas, Khâm sứ Toà Thánh cử hành Thánh Lễ cầu hồn.<ref name= nt2>{{chú thích web|url=http://giaophannhatrang.org/index.php?nv=news&op=Cac-Duc-Nguyen-Giam-Muc/Duc-Cha-Marcel-Piquet-Loi-94|tiêu đề=ĐỨC CHA PAUL MARCEL PIQUET LỢI
GIÁM MỤC TIÊN KHỞI GIÁO PHẬN NHA TRANG| ngày truy cập= 28-07-2015}}</ref>
 
Linh cữu ông được dời về Toà Giám mục Nha Trang để trong ba ngày cho giáo dân đến viếng. Ngày [[18 tháng 07]] năm [[1966]], Giám mục [[Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền]], Giám mục Chánh toà [[Giáo phận Đà Lạt]] chủ sự Thánh lễ an táng tại [[Nhà thờ Núi Nha Trang|Nhà thờ Chánh toà Nha Trang]].<ref name= ca/>. Ông được an táng trong ngôi mộ phía trước tiền đường Nhà thờ Chính Toà Nha Trang.<ref name= nt2hd /><ref name= hdnt2 />
 
==Xem thêm==