Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ngựa vằn Grévy”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
thêm chú thích cho tên loài
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 22:
}}
 
'''Ngựa vằn Grevy''',<ref>{{chú thích thông cáo báo chí|title=Thông tư số 40/2013/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Ban hành Danh mục các loài động vật, thực vật hoang dã quy định trong các Phụ lục của Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp|url=http://chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/hethongvanban?class_id=1&mode=detail&document_id=169765|ngày truy cập=ngày 31 tháng 12 năm 2016}}</ref>''', tên khoa học '''''Equus grevyi''''', là một loài [[lớp Thú|động vật có vú]] trong họ [[Họ Ngựa|Equidae]], bộ [[Bộ Guốc lẻ|Perissodactyla]]. Loài này được Oustalet mô tả năm 1882.<ref name=msw3/>.
 
Chúng là loài ngựa hoang dã lớn nhất còn sinh tồn và lớn nhất và nguy cấp nhất trong ba loài ngựa vằn, hai loài còn lại là [[ngựa vằn đồng bằng]] và [[ngựa vằn núi]]. Ngựa vằn Grevy lớn hơn tất cả các loài săn chúng, lớn hơn cả sư tử, chúng dài từ 2.5-2.7m, cao từ 1.45-1.6m, nặng từ 350-450kg. Được đặt theo tên [[Jules Grévy]], ngựa vằn Grevy là thành viên duy nhất còn tồn tại của phân chi '''Dolichohippus'''. Ngựa vằn Grévy được tìm thấy ở [[Kenya]] và [[Ethiopia]]. So với ngựa vằn khác, nó có tai lớn, cao hơn và sọc của nó hẹp hơn.