Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hồng quân”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã lùi về phiên bản 51683687 bởi Bonthefox3 (thảo luận): Lùi về phiên bản trước hai bè rối, tháng 4 năm 2019. (TW) Thẻ: Lùi sửa |
|||
Dòng 1:
{{bài cùng tên}}
{{Infobox military unit
| unit_name = Hồng quân Công Nông
| image = Communist star.svg
| image_size = 180
| dates = {{start and end date|1918|01|15|1946|02|25|df=y}}
| country = {{ubl|{{flagcountry|
| allegiance = [[
| army size =
| commander = [[General Secretary of the Communist Party of the Soviet Union]]
| type =
| role = [[
| battles = {{ubl|[[
}}
{{Quân đội Xô viết}}▼
'''Hồng Quân''' là cách gọi vắn tắt của '''Hồng quân Công Nông''' ([[tiếng Nga]]: Рабоче-крестьянская Красная армия; [[Chuyển tự tiếng Nga sang ký tự Latinh|dạng ký tự Latin]]: ''Raboche-krest'yanskaya Krasnaya armiya'', viết tất: RKKA), tên gọi chính thức của Lục quân và Không quân Liên Xô. Hồng Quân cùng với các lực lượng khác (Hải quân, Bộ đội biên phòng, Lực lượng cảnh vệ nội vụ, Lực lượng cận vệ quốc gia) tạo thành Lực lượng vũ trang Liên Xô. Từ "hồng" (màu đỏ) là màu của cách mạng. Hồng quân được những người [[Bolshevik]] thành lập ngày [[28 tháng 1]] năm [[1918]] (ngày [[15 tháng 1]] theo [[lịch Julius]]). Ngày thành lập chính thức là ngày [[23 tháng 2]] năm 1918, ngày quân Đức ngừng tấn công [[Sankt-Peterburg|Petrograd]] và ký hòa ước. Tư lệnh đầu tiên của Hồng Quân là [[Lev Davidovich Trotsky]].
Tới năm [[1922]], Hồng Quân chính thức trở thành quân đội chính quy của [[Liên Xô|Liên bang Xô
Hồng quân là lực lượng quân đội lớn nhất thế giới từ [[thập niên 1940]] cho tới khi Liên Xô tan rã vào năm 1991 (mặc dù kể từ thập niên 1960, [[Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc]] có quân số lớn hơn Hồng quân nhưng số lượng trang bị vũ khí hạng nặng nhìn chung là ít hơn).
== Lịch sử ==
▲{{Quân đội Xô viết}}
=== Nền tảng ban đầu của Hồng quân ===
Khi nguy cơ của cuộc [[Nội chiến Nga]] đã dần trở thành hiện thực, những người lãnh đạo Bôn-sê-vích đã nhìn thấy sự cần thiết phải thay thế lực lượng [[Cận vệ Đỏ (Nga)|Cận vệ Đỏ]] tạm thời bằng một quân đội chuyên nghiệp lâu dài. [[Hội đồng Dân ủy]] đã thiết lập Hồng quân theo một sắc lệnh vào ngày [[28 tháng 1]] năm [[1918]]<ref>[[15 tháng 1]] năm [[1918]] theo [[lịch Julius|lịch cũ]].</ref> với nòng cốt là lực lượng Cận vệ Đỏ. Tuy nhiên ngày thành lập chính thức Hồng Quân được tính là ngày [[23 tháng 2]] năm [[1918]], đó là ngày biệt đội lớn đầu tiên của Hồng quân xuất hiện ở Petrograd và [[Moskva]] và là ngày trận đánh đầu tiên với quân đội [[Đế quốc Đức]] trên sông Neva<ref>S.S. Lototskiy, ''The Soviet Army'' (Moscow:Progress Publishers, 1971), p.25, cited in Scott and Scott, ''The Armed Forces of the Soviet Union'', Eastview Press, Boulder, Co., 1979, p.3. February 23 became an important national holiday in the Soviet Union, later celebrated as "Soviet Army Day".</ref>. Cuộc nội chiến đang manh nha đã bùng phát dữ dội sau khi [[Vladimir Ilyich Lenin|Lenin]] giải tán [[Hội đồng Lập hiến Nga]] và ký [[Hòa ước Brest-Litovsk|Hoà ước Brest-Litovsk]], khi các lực lượng Bolshevik mới thành lập phải đối mặt với các lực lượng chống Bolshevik liên minh lỏng lẻo, được biết đến với tên [[Bạch vệ]].
Tư lệnh đầu tiên của Hồng quân là [[Lev Davidovich Trotsky]], Bộ trưởng Dân ủy Chiến tranh từ năm 1918 đến 1924, người được ghi công về việc tạo ra một lực lượng quân đội có kỷ cương từ những người tình nguyện ô hợp<ref>Scott and Scott, 1979, p.8</ref>. Trotsky quyết định bổ sung sĩ quan cho đội quân non nớt của mình bằng những sĩ quan và hạ sĩ quan cũ của quân đội [[Đế quốc Nga]]<ref>John Erickson, ''The Soviet High Command - A Military-Political History 1918–41'', MacMillan, Luân Đôn, 1962, p.31–34</ref>. Điều này bị phái "Cộng sản cánh tả", đứng đầu là [[Nikolai Ivanovich Bukharin]], phản đối
Các cơ quan quyền lực Bolshevik thành lập một ủy ban đặc biệt do Lev Glezarov đứng đầu, và đến giữa tháng 8 năm 1920 đã huy động được 48.000 sĩ quan
Một bước đi quan trọng khác là nỗ lực thống nhất các tổ chức quân sự cũ của Bolshevik và thành lập [[Hội đồng Quân sự Cách mạng]] vào ngày [[6 tháng 9]] năm 1918. Trotsky là chủ tịch của Hội đồng Quân sự Cách mạng, dưới ông là [[Ioakim Ioakimovich Vatsetis]], Đại tá của quân đội chế độ cũ, người [[Latvia]], trở thành Tổng tư lệnh Hồng quân đầu tiên.
Khẩu hiệu ban đầu của Hồng quân là
Trotsky và những người Bolshevik sau đó đã phải cố gắng rất nhiều để diệt tận gốc các "đội quân vô chính phủ" trong những tháng hỗn loạn đầu tiên của Hồng quân, theo phương châm "Cổ vũ, Tổ chức và Báo thù", và trong vài trường hợp phải sử dụng đến biện pháp cứng rắn như xử bắn để trừng phạt những kẻ đào ngũ<ref>Erickson, 1962, p.38–9</ref>. Để đảm bảo lòng trung thành của những quân nhân
=== Nội chiến Nga ===
Dòng 94:
==== Lực lượng Hồng quân trong Nội chiến ====
Vào giai đoạn 1920 Hồng quân có khoảng 3 triệu người
# Các Tập đoàn Hồng quân từ số 1 đến số 12;
# Các Tập đoàn Hồng quân Ukraina số 1 đến số 3;
Dòng 150:
{{details|Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại}}
[[Tập tin:Reichstag flag original.jpg|nhỏ|250px|Người lính Hồng quân [[Meliton Kantaria]] cắm lá cờ đỏ búa liềm Xô Viết trên tòa nhà [[Quốc hội Đức]], đánh dấu chiến thắng của Liên Xô trong thế chiến thứ hai]]
Vào thời điểm quân đội [[Đức Quốc xã|Phát xít]] tấn công Liên Xô vào tháng 6 năm 1941, lực lượng Bộ binh của Hồng Quân có 303 sư đoàn và 22 lữ đoàn (4,8 triệu quân), bao gồm 166 sư đoàn và 9 lữ đoàn (2,
Tuy nhiên, những tuần đầu tiên của trận chiến chứng kiến những thất bại nặng nề của Liên Xô khi hàng trăm ngàn binh sỹ Hồng Quân mắc kẹt trong vòng vây khổng lồ của quân Đức, gây ra tổn hại cho phần lớn trang thiết bị, xe tăng và pháo{{cần dẫn chứng}}. Stalin và các nhà lãnh đạo Xô viết trả lời bằng việc tăng cường tổng động viên, và đến ngày 1 tháng 8 năm 1941, mặc cho sự tiêu hao 46 sư đoàn trong trận chiến, sức mạnh của Hồng Quân lại được hồi phục với 401 sư đoàn<ref>[[David Glantz]], ''Stumbling Colossus'', University Press of Kansas, 1998, p.15</ref>.
Lực lượng Xô viết chịu tổn thất nặng nề trên chiến trường không chỉ xuất phát sự chuẩn bị kém do bị bất ngờ, mà còn là do thiếu hụt sĩ quan từ kết quả của sự thanh lọc, sự phá hoại tổ chức do kết quả của sự động viên
Một thế hệ chỉ huy Xô viết (đáng chú ý nhất là [[Georgi Konstantinovich Zhukov|Georgy Konstantinovich Zhukov]]) đã rút được bài học từ các thất bại<ref>[[David Glantz]], ''Colossus Reborn'', 2005, p.61–62</ref>, và chiến thắng của quân đội Xô viết trong các [[Trận Moskva (1941)|Trận Moskva]], [[Trận Stalingrad|Stalingrad]], [[Trận Vòng cung Kursk|Kursk]] và sau đó là ở [[Chiến dịch Bagration]] đã chứng minh tinh thần quyết liệt mà sau đó người Xô viết dùng nói để gọi [[Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại]]{{cần dẫn chứng}}.
[[Tập tin:Poster russian.jpg|nhỏ|trái|200px|Áp phích của chính quyền Mỹ cho thấy một người lính Nga thân thiện theo như mô tả của Đồng minh trong suốt [[Chiến tranh thế giới thứ hai]]]]
Chính quyền Liên Xô đã sử dụng một số biện pháp để tăng vị thế và khí thế của Hồng Quân
Quân đội Xô Viết tổn thất 8,67 triệu lính trong chiến tranh. Khoảng 6,537 triệu chết hoặc mất tích trong chiến đấu và 2,2 triệu [[tù binh]] chết trong trại giam của Đức (trên tổng số
Khi [[Wehrmacht|quân đội của Đức Quốc xã]] tấn công, đã có những dân tộc bất mãn với chính quyền Xô Viết như người [[Chechnya|Chechen]] và người Thổ tại [[Kavkaz]], người [[Người Tatar|Tartar]] ở [[Krym]], các dân tộc tại Baltic, người Kozak tại Ukraina và vùng sông Đông và các dân tộc chống Xô Viết khác đã vui mừng chào đón quân Đức như những người giải phóng. Người thuộc các nước vùng Baltic đáng tin cậy nhất thì được tham gia các lực lượng [[Waffen-SS]] Đức, các dân tộc thiểu số như người Kozak thì tham gia lực lượng Don Cossack (Kozak sông Đông), còn các tù binh người Ukraina và Nga có tinh thần chống Xô Viết thì được biên chế trong Quân đội Giải phóng nước Nga-RNNA do tướng Andrei Vlasov chỉ huy. Sau khi chiến tranh kết thúc, chính quyền Xô Viết đã trừng phạt các dân tộc ủng hộ Đức tương đối khốc liệt.<ref>Rossiiskaia Akademiia nauk. Liudskie poteri SSSR v period vtoroi mirovoi voiny:sbornik statei. Sankt-Peterburg 1995 ISBN 5-86789-023-6</ref>
Hàng 165 ⟶ 167:
Khi Hồng Quân bắt đầu phản công ở châu Âu, một bộ phận binh sĩ đã trả thù tàn bạo đáp trả lại sự tàn bạo của quân Đức. Trong khi quy định của Hồng Quân chính thức cấm những hành động như vậy, những chỉ huy cấp thấp cũng im lặng bỏ qua chuyện này. Tuy nhiên vài sử gia đã bác lại luận điệu rằng các quan chức Liên Xô chính thức khuyến khích hành động đó. Đối với [[tù binh|tù nhân chiến tranh]], cả hai bên đều đã bắt được một lượng lớn và đều có nhiều lính chết trong tù - một con số gần đây của Nga nói rằng đã có 3,6 trong số 6 triệu tù nhân chiến tranh Liên Xô chết trong các trại tập trung của Đức, trong khi cũng theo người Nga thì khoảng 300.000 trong 3 triệu tù binh người Đức đã chết trong trại giam của Nga<ref>German-Russian Berlin-Karlhorst museum, http://newsfromrussia.com/science/2003/06/13/48180.html <!-- lỗi server --> <!-- lỗi server --></ref>.
Trong đoạn đầu của chiến tranh, Hồng Quân sử dụng vũ khí với đủ các loại chất lượng. Họ có các pháo cực tốt{{cần dẫn chứng}}, nhưng không đủ xe tải để vận chuyển và tiếp tế; kết quả là quân đội Đức (những người đánh giá cao vũ khí này) đã chiếm được khá nhiều. [[Xe tăng T-34]] của Hồng Quân nói chung vượt trội hơn hẳn các loại xe tăng khác cho đến năm 1943, tuy nhiên số lượng khá ít và phần lớn các vũ khí quân dụng của Liên Xô khi đó đều là những mẫu cũ
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai Quân đội Xô viết có được lực lượng lục quân mạnh nhất trong lịch sử.{{cần dẫn chứng}} Năm 1945, Quân đội Xô viết có trong tay 13 triệu binh sĩ dày dạn kinh nghiệm, được trang bị 40.000 [[xe tăng]] và [[pháo tự hành]], gần 80.000 đại bác. Nó có nhiều xe tăng và pháo hơn tất cả các nước khác gộp lại, nhiều lính hơn, và một số lượng lớn các sĩ quan và nhân viên có rất nhiều kinh nghiệm trận mạc. Sau thế chiến, [[Ủy ban Tham mưu]] của Anh đã từng lên kế hoạch đem quân tiêu diệt chính quyền Liên Xô và đẩy Hồng Quân ra khỏi châu Âu<ref name="glantz"/>, nhưng kế hoạch bị từ chối do tính không khả thi về mặt quân sự, và kế hoạch này bị gọi là [[Chiến dịch Không tưởng]]<ref>[http://www.history.neu.edu/PRO2/pages/026.htm Operation Unthinkable report - page 2, opening date.]</ref>.▼
▲Quân đội Xô Viết tổn thất 8,67 triệu lính trong chiến tranh. Khoảng 6,537 triệu chết hoặc mất tích trong chiến đấu và 2,2 triệu [[tù binh]] chết trong trại giam của Đức (trên tổng số 4,1 triệu lính bị bắt). Khoảng 400.000 quân Nhảy dù và du kích cũng thiệt mạng.<ref>G. I. Krivosheev. Soviet Casualties and Combat Losses. Greenhill 1997 ISBN 1-85367-280-7</ref>.<ref>http://www.soldat.ru/doc/casualties/book/chapter5_05.html.</ref> Phía Đức Quốc xã thì bị tổn thất khoảng 5,1 triệu lính chết và 4,5 triệu lính bị bắt.
▲Sau Chiến tranh thế giới thứ hai Quân đội Xô viết có được lực lượng lục quân mạnh nhất trong lịch sử. Năm 1945, Quân đội Xô viết có trong tay 13 triệu binh sĩ dày dạn kinh nghiệm, được trang bị 40.000 [[xe tăng]] và [[pháo tự hành]], gần 80.000 đại bác. Nó có nhiều xe tăng và pháo hơn tất cả các nước khác gộp lại, nhiều lính hơn, và một số lượng lớn các sĩ quan và nhân viên có rất nhiều kinh nghiệm trận mạc. Sau thế chiến, [[Ủy ban Tham mưu]] của Anh đã từng lên kế hoạch đem quân tiêu diệt chính quyền Liên Xô và đẩy Hồng Quân ra khỏi châu Âu<ref name="glantz"/>, nhưng kế hoạch bị từ chối do tính không khả thi về mặt quân sự, và kế hoạch này bị gọi là [[Chiến dịch Không tưởng]]<ref>[http://www.history.neu.edu/PRO2/pages/026.htm Operation Unthinkable report - page 2, opening date.]</ref>.
=== Chiến tranh Lạnh ===
Dòng 176:
Để đánh dấu bước chuyển đổi cuối cùng từ lực lượng dân quân cách mạng thành quân đội chính quy của một quốc gia độc lập, Hồng Quân được đổi tên thành "Quân đội Xô viết" vào năm 1946. [[Georgi Konstantinovich Zhukov]] trở thành Tổng Tư lệnh Lực lượng Lục quân Liên Xô vào tháng 3 năm 1946, nhưng liền sau được [[Ivan Stepanovich Koniev|Ivan Stepanovich Konev]] thay thế vào tháng 7. Konev giữ chức vụ này đến năm 1950, lúc đó chức vụ này bị hủy bỏ trong năm năm. Có tác giả suy đoán rằng khoảng trống này "có thể liên quan đến thái độ của Liên Xô đối với [[Chiến tranh Triều Tiên]]" <ref>Scott and Scott, The Armed Forces of the Soviet Union, Eastview Press, Boulder, Co., 1979, p.142</ref>.
Quy mô của [[Lực lượng Vũ trang Liên Xô]] giảm xuống từ 11,3 triệu đến còn xấp xỉ 2,8 triệu quân từ năm 1945 đến 1948 <ref>[[William Eldridge Odom|William E. Odom]], The Collapse of the Soviet Military, Yale University Press, New Haven and London, 1998, p.39</ref>. Để quản lý quá trình giải ngũ này, số lượng [[quân khu]] tạm thời tăng lên con số 34 khu, rồi giảm xuống còn 21 khu vào năm 1946 <ref>Scott and Scott, The Armed Forces of the Soviet Union, Westview Press, Boulder, CO., 1979, p.176</ref>. Quy mô của Lực lượng Vũ trang trong suốt [[Chiến tranh Lạnh]] vẫn duy trì vào khoảng 2,8 triệu đến 5,3 triệu quân, theo như phương Tây ước tính <ref>Odom, 1998, p.39</ref>. Luật pháp Liên Xô bắt buộc mọi nam thanh niên đến tuổi trưởng thành phải phục vụ trong quân đội ít nhất ba năm, đến năm 1967 thì thời hạn nghĩa vụ quân sự của Bộ binh rút xuống còn hai năm<ref>Scott and Scott, 1979, p.305</ref>. Các đơn vị Quân đội Xô viết đã "giải phóng" các quốc gia ở [[Đông Âu]] khỏi sự cai trị của Đức
[[Tập tin:Soviet big 7.jpg|nhỏ|trái|Nghiên cứu của Hoa Kỳ về bảy thứ vũ khí quan trọng nhất trong các quân dụng chiến trường của Liên Xô năm 1981.]]
Dòng 186:
{{chính|Chiến tranh Afghanistan (1978–1992)}}
[[Tập tin:RIAN archive 21116 Afghan war veterans meeting.jpg|nhỏ|250px|Thương phế binh Liên Xô trở về từ Afghanistan]]
Ngày 25 tháng 12 năm 1979, Tập đoàn quân số 40 của Hồng Quân Liên Xô bắt đầu triển khai tại [[Afghanistan]]
Chỉ riêng thường nhân, từ 850.000 đến 1,5 triệu người Afghan đã bị giết chết và hàng triệu người đã chạy ra khỏi nước tị nạn, hầu hết tới [[Pakistan]] và [[Iran]].
==== Giai đoạn cuối của Liên Xô ====
Hàng 208 ⟶ 210:
== Ngân sách Quốc phòng ==
Sau [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến II]]
Theo số liệu của [[
== Các cáo buộc về tội ác chiến tranh ==
<!--[[Tập tin:Katyn_massacre_1.jpg|nhỏ|phải|250px|Một trong những hố chôn tập thể sĩ quan Ba Lan bị Liên Xô
===
{{chính|Thảm sát Katyn}}
Sau khi [[Liên Xô tấn công Ba Lan|cùng Đức Quốc Xã xâm lược Ba Lan]] vào tháng 9 năm 1939, Hồng Quân Liên Xô chiếm đóng nửa phía đông của nước này theo [[Hiệp ước Xô-Đức|thỏa thuận đã ký kết trước đó với Phát Xít Đức]].
[[Bộ Dân ủy Nội vụ|Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô]] (NKVD) do [[Lavrentiy Beria]] đứng đầu đề đã xuất xử bắn tất cả các [[sĩ quan]] [[Ba Lan]] bị bắt. [[Bộ Chính trị]] [[Đảng Cộng sản Liên Xô]], gồm cả [[Stalin]] đã ký và đóng dấu phê chuẩn. Vụ
Sau nhiều năm chối tội và đổ lỗi cho Phát Xít Đức, cuối cùng [[Nga]] cũng phải thừa nhận các lãnh đạo Xiên Lô đã ra lệnh thảm sát.<ref>MỸ LOAN. Nga thừa nhận Stalin ra lệnh thảm sát Katyn. TUỔI TRẺ. 2018-02-20. URL:https://tuoitre.vn/nga-thua-nhan-stalin-ra-lenh-tham-sat-katyn-413231.htm. Accessed: 2018-02-20. (Archived by WebCite® at http://www.webcitation.org/6xNNOet6p)</ref> Năm 2010, Tổng thống Ba Lan [[Lech Kaczyński]] được mời tới [[Nga]] để tham dự lễ kỷ niệm 70 năm ngày hàng chục ngàn binh sĩ Ba Lan bị Liên Xô sát hại trong vụ [[thảm sát Katyn]] thì bị [[Vụ rơi máy bay Tu-154 của Không quân Ba Lan năm 2010|rơi máy bay và thiệt mạng tại Nga]].
[[Tập tin:DeadFinnishcivilians1942.jpg|nhỏ|phải|250px|Trẻ con Phần Lan chết trong một cuộc tấn công của du kích Liên Xô trong cuộc chiến tranh giữa hai nước năm 1944. Ảnh tư liệu được Lực lượng Phòng Vệ Phần Lan lưu trữ.]]▼
Trong [[Chiến tranh Liên Xô - Phần Lan (1939-1940)|cuộc chiến mùa đông năm 1939-1940]], Hồng Quân Liên Xô đã ném hơn 25 ngàn tấn [[bom]] (55.000 quả), 41 ngàn khối bom cháy xuống 690 thành phố, thị trấn và làng mạc của Phần Lan, khiến 956 thường dân chết, 540 bị thương nặng, 1.300 bị thương nhẹ với 2.000 ngôi nhà bị phá hủy, 5.000 nhà khác bị hư hại. Trong cả cuộc chiến, [[Phần Lan]] phải hứng chịu thiệt hại nặng nề, với 25.000 người chết, 55.000 bị thương, 450.000 người mất nhà cửa. Ngoài ra, Hồng Quân Liên Xô còn bắt hơn 3.500 tù binh chiến tranh, khoảng 40% số tù binh này sau đó đã chết.▼
=== Giết hại phụ nữ và trẻ em Phần Lan ===
Từ 1941 đến 1944, quân Liên Xô tiếp tục có chiến tranh với Phần Lan, nhiều người Phần Lan, trong đó có cả phụ nữ và trẻ em đã chết trong cuộc chiến<ref>{{Chú thích web|họ 1=Nykänen|tên 1=Anna-Stina|url=http://www.hs.fi/English/article/Too+awful+an+image+of+war/1135223124092|tiêu đề=Too awful an image of war: Sixty years on, there are no grounds to withhold images kept in a Finnish Defence Forces' safe|nhà xuất bản=Helsingin Sanomat|ngày tháng=19 November 2006|url hỏng=yes|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20061216201947/http://www.hs.fi/English/article/Too+awful+an+image+of+war/1135223124092|ngày lưu trữ=16 December 2006}}</ref>▼
▲[[Tập tin:DeadFinnishcivilians1942.jpg|nhỏ|phải|250px|Trẻ con Phần Lan
▲Trong [[Chiến tranh Liên Xô - Phần Lan (1939-1940)|cuộc
Trong cả cuộc chiến, [[Phần Lan]] phải hứng chịu thiệt hại nặng nề, với 25.000 người chết, 55.000 bị thương, 450.000 người mất nhà cửa. Ngoài ra Hồng Quân Liên Xô còn bắt hơn 3.500 tù binh chiến tranh, khoản 40% số tù binh này sau đó đã chết.
Năm 1945, trong lúc tiến quân vào Ba Lan (nước đã bị Đức Quốc xã chiếm đóng), đã có nhiều cáo buộc rằng phụ nữ Ba Lan đã bị lính Liên Xô cưỡng hiếp trên diện rộng.<ref name="polityka">{{Chú thích web | url=http://archiwum.polityka.pl/art/kobieca-gehenna,353703.html | tiêu đề="Kobieca gehenna" (The women's ordeal) | nhà xuất bản=''[[Polityka]]'' | work=No 10 (2695) | ngày tháng=2009-03-07 | ngày truy cập=April 21, 2011 | tác giả 1=Joanna Ostrowska, Marcin Zaremba | các trang=64–66|ngôn ngữ=pl}} <br>[http://www.ihuw.pl/biogramy/index.php?UID=87 Tiến sĩ Marcin Zaremba] của [[Học viện Hàn Lâm Khoa học Ba Lan]], đồng tác giả bài viết trên là nhà sử học hiện là giảng viên [[Đại học Warsaw]], Chuyên khoa Lịch sử Thế kỷ XX ([https://scholar.google.ca/scholar?hl=en&q=%22Marcin+Zaremba%22&btnG=Search&as_sdt=0%2C5&as_ylo=&as_vis=0 cited 196 times in Google scholar]). Zaremba đã xuất bản nhiều tài liệu chuyên khảo, gồm: ''Komunizm, legitymizacja, nacjonalizm'' (426 trang),[http://www.poczytaj.pl/145] ''Marzec 1968'' (274 trang), ''Dzień po dniu w raportach SB'' (274 trang), ''Immobilienwirtschaft'' (tiếng Đức, 359 trang), xem [http://www.google.ca/search?tbo=p&tbm=bks&q=+inauthor:%22Marcin+Zaremba%22&source=gbs_metadata_r&cad=7 inauthor:"Marcin Zaremba" in Google Books.] <br>[http://genderstudies.pl/index.php/zajecia/joanna_ostrowska/ Joanna Ostrowska] từ [[Warsaw]], Ba Lan, là giảng viên Khoa Giới tính Học ở trường [[Đại học Jagiellonian]] ở Kraków, [[Đại học Warsaw]], và [[Học viện Hàn Lâm Khoa học Ba Lan]]. Bà là tác giả nhiều nghiên cứu về chủ đề cưỡng hiếp tập thể và ép buộc bán dâm ở Ba Lan trong Thế Chiến II (như "Prostytucja jako praca przymusowa w czasie II Wojny Światowej. Próba odtabuizowania zjawiska," "Wielkie przemilczanie. Prostytucja w obozach koncentracyjnych,"...).</ref> Khi quân Liên Xô tấn công vào Hungary (khi đó là đồng minh của Đức Quốc xã), ước tính khoản 50.000 phụ nữ Hungary đã bị cưỡng hiếp.<ref>{{cite journal| first=Mark| last=James| title=Remembering Rape: Divided Social Memory and the Red Army in Hungary 1944–1945| journal=[[Past & Present (journal)|Past & Present]] |url=http://muse.jhu.edu/journals/past_and_present/v188/188.1mark.html| doi=10.1093/pastj/gti020| volume=188| issue=August 2005| pages=133–161| issn=1477-464X| publisher=Oxford University Press}}</ref>▼
▲Từ 1941 đến 1944, quân Liên Xô tiếp tục
Theo một số tài liệu, kể từ khi tiến vào nước [[Đức]] (1944-1945), ngoài việc cướp nhà dân và cửa hiệu<ref>Hubertus Knabe, ''Tag der Befreiung? Das Kriegsende in Ostdeutschland'' (Ngày giải phóng? Kết thúc chiến tranh ở Đông Đức); [http://www.amazon.de/Tag-Befreiung-Das-Kriegsende-Ostdeutschland/dp/3549072457 mua sách này trên Amazon]</ref> một bộ phận Hồng quân Liên Xô đã [[hiếp dâm|hãm hiếp]] nhiều phụ nữ và trẻ em người Đức, từ 8 đến 80 tuổi <!--(báo [[The Guardian]] của Anh cho rằng con số này lên đến 2 triệu)<ref>▼
=== Cướp bóc và cưỡng hiếp ở Đông Âu và Đức ===
▲Năm 1945, trong lúc
▲Theo một số tài liệu phương Tây, kể từ khi tiến vào nước [[Đức]] (1944-1945), ngoài việc cướp nhà dân và cửa hiệu<ref>Hubertus Knabe, ''Tag der Befreiung? Das Kriegsende in Ostdeutschland'' (Ngày giải phóng? Kết thúc chiến tranh ở Đông Đức); [http://www.amazon.de/Tag-Befreiung-Das-Kriegsende-Ostdeutschland/dp/3549072457 mua sách này trên Amazon]</ref> một bộ phận Hồng quân Liên Xô đã [[hiếp dâm|hãm hiếp]] nhiều phụ nữ và trẻ em người Đức, từ 8 đến 80 tuổi <!--(báo [[The Guardian]] của Anh cho rằng con số này lên đến 2 triệu)<ref>
{{Chú thích web
|url=http://www.guardian.co.uk/g2/story/0,3604,707835,00.html
Hàng 243 ⟶ 251:
|tên 1=
}}
</ref><ref>Nhật ký của nhà viết kịch và đạo diễn người Nga [[Zakhar Agranenko]]</ref><ref>Antony James Beevor, ''Berlin: The Downfall 1945'' (Ngày tàn của Berlin năm 1945), trang 28; [http://www.amazon.co.uk/Berlin-Downfall-1945-Antony-Beevor/dp/0140286969 mua sách này trên Amazon]</ref><ref>[http://www.guardian.co.uk/g2/story/0,3604,707835,00.html Báo ''The Guardian'' trích sách của Antony James Beevor], ngày 1 tháng 5 năm 2002</ref><ref>Alfred-Maurice de Zayas, ''Die Anglo-Amerikaner und die Vertreibung der Deutschen'', Tr. 87, Ullstein, 1988. [http://www.amazon.de/Die-Anglo-Amerikaner-die-Vertreibung-Deutschen/dp/3548332064 Để kiểm chứng, có thể mua sách này trên Amazon]</ref><ref>Franz Wilhelm Seidler và Alfred-Maurice de Zayas, ''Kriegsverbrechen in Europa und im Nahen Osten im 20. Jahrhundert'' (Tội ác chiến tranh ở châu Âu, Đông Đức trong thế kỷ 20); [http://www.preistrend.de/Buch_Preisvergleich_Kriegsverbrechen_in_Europa_und_im_Nahen_Osten_im_20_Jahrhundert__o7249710201767402.html mua sách này trên PreisTrend] hoặc [http://www.amazon.de/Kriegsverbrechen-Europa-Nahen-Osten-Jahrhundert/dp/3813207021/ref=pd_bxgy_b_img_b trên Amazon]</ref><ref>Theodor Schieder, ''Dokumentation der Vertreibung der Deutschen aus Ost-Mitteleuropa'' (Tư liệu về việc người Đức bị bắt phải di cư khỏi miền đông Trung Âu), nhà xuất bản Deutscher Taschenbuch Verlag (DTV), [[München]], Đức, năm 2004; [http://www.dtv.de/dtv.cfm?wohin=dtvnr59072 mua sách trên website của DTV]</ref>. Nhiều nạn nhân trong số này bị từ 10 đến 12 lính Hồng quân hãm hiếp tập thể, và đa số bị hãm hiếp trên 70 lần<ref>William Hitchcock, ''The Struggle for Europe: The Turbulent History of a Divided Continent, 1945-2002'' (Cuộc chiến giành châu Âu: Lịch sử hỗn loạn của một lục địa bị chia cắt, 1945-2002); [http://www.amazon.com/Struggle-Europe-Turbulent-Continent-1945-2002/dp/0385497989 mua sách này trên Amazon]</ref>--><ref>Helke Sander và Barbara Johr, phim tư liệu ''BeFreier und Befreite. Krieg, Vergewaltigung, Kinder'' (Những kẻ đem lại tự do lại cướp mất tự do. Chiến tranh, hãm hiếp, và trẻ con); [http://www.amazon.de/BeFreier-Befreite-Krieg-Vergewaltigung-Kinder/dp/3596163056 mua phim tư liệu này trên Amazon]</ref><ref>Richard Overy, phim tư liệu ''Russia's War: Blood upon the Snow'' (Cuộc chiến của nước Nga: Máu trên tuyết), năm 1997; [http://www.amazon.com/Russias-War-Blood-Upon-Snow/dp/6304547188 mua phim tư liệu này trên Amazon]</ref>. Việc hãm hiếp phụ nữ Đức được các binh sĩ này xem là chiến tích để báo thù cho người Liên Xô và để
Tuy nhiên, một số tài liệu và hồi ký của các binh sĩ Hồng Quân phủ nhận điều này. Trong [[Hồi ký của Mansur]], tiểu đoàn trưởng một đơn vị Hồng quân, ông nói "không có cướp bóc và hãm hiếp bởi binh sĩ dưới quyền" bởi những hình phạt nghiêm khắc được đề ra. Thậm chí ông kể lại một người Đức đã dẫn hai cô gái đến cho ông để "lấy lòng", và ông đã đuổi họ về vì cho rằng đó là "quá vô đạo đức". Trong hồi ký khác "800 ngày trên Mặt trận phía Đông", tác giả đã gọi những sử gia [[phương Tây]] loan báo về nạn cướp bóc hãm hiếp trên diện rộng là "những sử gia xấu bụng", các tài liệu mang màu sắc chính trị chống Xô Viết từ thời [[Chiến tranh Lạnh]]. Ông cho rằng những hành vi này chỉ xảy ra ở các đơn vị cá biệt. Hơn nữa con số phụ nữ bị hãm hiếp đã bị phóng đại, vì thực tế có rất ít trẻ em Đức sinh ra sau chiến tranh không rõ cha là ai.
Về vấn đề cướp phá các cửa hàng, ông viết: ''"Quân ta có cướp bóc không? Không rõ. Trong nhiều tính huống cần đánh giá một cách thận trọng vì đó thường chỉ là việc vượt quá quy định một chút. Không việc gì phải cướp bóc cả; sau tất cả, những [[người lính]] chỉ thỉnh thoảng cần một chút gì đó để ăn và uống cho thích đáng. Khi bạn tấn công, bao giờ cũng thu được chiến lợi phẩm. Chúng tôi đã bắt gặp rất nhiều kho hậu cần và hàng hóa của bọn Đức dọc đường tiến quân nhưng nhà bếp quân ta bao giờ cũng cung cấp gấp 3 lần số cần thiết. Và thật khó để phân biệt đâu là nhà kho của quân đội, đâu là cửa hàng của dân thường do vấn đề ngôn ngữ"''
▲Tuy nhiên, một số tài liệu và hồi ký của các binh sĩ Hồng Quân phủ nhận điều này. Trong [[Hồi ký của Mansur]], tiểu đoàn trưởng một đơn vị Hồng quân, ông nói "không có cướp bóc và hãm hiếp bởi binh sĩ dưới quyền" bởi những hình phạt nghiêm khắc được đề ra. Thậm chí ông kể lại một người Đức đã dẫn hai cô gái đến cho ông để "lấy lòng", và ông đã đuổi họ về vì cho rằng đó là "quá vô đạo đức". Trong hồi ký khác "800 ngày trên Mặt trận phía Đông", tác giả đã gọi những sử gia [[phương Tây]] loan báo về nạn cướp bóc hãm hiếp trên diện rộng là "những sử gia xấu bụng", các tài liệu mang màu sắc chính trị chống Xô Viết từ thời [[Chiến tranh Lạnh]]. Ông cho rằng những hành vi này chỉ xảy ra ở các đơn vị cá biệt. Hơn nữa con số phụ nữ bị hãm hiếp đã bị phóng đại, vì thực tế có rất ít trẻ em Đức sinh ra sau chiến tranh không rõ cha là ai. {{fact}}
Theo [[Stuart Britton]], một ký giả chuyên ghi chép về Hồng quân, ông đánh giá: ''Tình hình thay đổi khi Hồng quân tiến vào nước Đức. Ham muốn báo thù trỗi dậy mạnh mẽ ở phần lớn trong số họ, sau nhiều năm chiến tranh và sự chiếm đóng tàn bạo của người Đức đã hủy diệt vô số trang trại, làng mạc và gia đình người Liên Xô. Các bằng chứng từ cả hai phía dân thường và cựu binh Nga cho biết chỉ có các lực lượng tiếp quản đi sau mới phải chịu trách nhiệm về những hành động tàn bạo quá mức đối với dân thường. Nhiều người trong số họ vốn là tù nhân được gom vội vào Hồng quân hoặc đã từng sống lâu dài trong vùng tạm chiếm, bị quân Đức chiếm đóng đối xử tàn bạo. Sự giáo dục và kỷ luật quân đội trong những đơn vị lính phần lớn là tân binh nghĩa vụ này cũng thấp hơn nhiều cánh lính cựu phục vụ tại các đơn vị tuyến đầu.''
▲Về vấn đề cướp phá các cửa hàng, ông viết: ''"Quân ta có cướp bóc không? Không rõ. Trong nhiều tính huống cần đánh giá một cách thận trọng vì đó thường chỉ là việc vượt quá quy định một chút. Không việc gì phải cướp bóc cả; sau tất cả, những [[người lính]] chỉ thỉnh thoảng cần một chút gì đó để ăn và uống cho thích đáng. Khi bạn tấn công, bao giờ cũng thu được chiến lợi phẩm. Chúng tôi đã bắt gặp rất nhiều kho hậu cần và hàng hóa của bọn Đức dọc đường tiến quân nhưng nhà bếp quân ta bao giờ cũng cung cấp gấp 3 lần số cần thiết. Và thật khó để phân biệt đâu là nhà kho của quân đội, đâu là cửa hàng của dân thường do vấn đề ngôn ngữ"'' {{fact}}
▲Theo [[Stuart Britton]], một ký giả chuyên ghi chép về Hồng quân, ông đánh giá: ''Tình hình thay đổi khi Hồng quân tiến vào nước Đức. Ham muốn báo thù trỗi dậy mạnh mẽ ở phần lớn trong số họ, sau nhiều năm chiến tranh và sự chiếm đóng tàn bạo của người Đức đã hủy diệt vô số trang trại, làng mạc và gia đình người Liên Xô. Các bằng chứng từ cả hai phía dân thường và cựu binh Nga cho biết chỉ có các lực lượng tiếp quản đi sau mới phải chịu trách nhiệm về những hành động tàn bạo quá mức đối với dân thường. Nhiều người trong số họ vốn là tù nhân được gom vội vào Hồng quân hoặc đã từng sống lâu dài trong vùng tạm chiếm, bị quân Đức chiếm đóng đối xử tàn bạo. Sự giáo dục và kỷ luật quân đội trong những đơn vị lính phần lớn là tân binh nghĩa vụ này cũng thấp hơn nhiều cánh lính cựu phục vụ tại các đơn vị tuyến đầu.'' {{fact}}
Hơn nữa cũng có bằng chứng chứng tỏ các chỉ huy Hồng quân hoàn toàn không làm ngơ với các hành vi của binh lính. Những hành vi cướp bóc, hãm hiếp chỉ là bột phát do tâm lý muốn trả thù của binh lính chứ không phải là chủ trương của các cấp chỉ huy Hồng quân. Đại sứ Nga tới Anh cho biết các cáo buộc hãm hiếp là vô căn cứ, ''"Đó là một sự ô nhục khi vu khống chống lại những người đã cứu thế giới khỏi [[chủ nghĩa phát xít]]."''<ref>[http://www.telegraph.co.uk/opinion/main.jhtml?xml=/opinion/2002/01/25/dt2506.xml telegraph.co.uk]</ref> Một số nhà sử học đã dẫn chứng một lệnh ban hành ngày 19 tháng 1 năm 1945, yêu cầu việc ngăn ngừa ngược đãi thường dân. Một lệnh của Hội đồng quân sự của [[Mặt trận Byelorussia số 1]], có chữ ký của Nguyên soái Rokossovsky, đã ra lệnh bắn bọn trộm cướp và hiếp dâm tại hiện trường của vụ án. Một lệnh ban hành bởi Stavka vào ngày 20 tháng 4 năm 1945 nói rằng cần phải duy trì quan hệ tốt với người dân Đức để giảm kháng cự và để chiến sự kết thúc nhanh hơn.<ref>{{Chú thích web | url = http://actualhistory.ru/51 | tiêu đề = Н. Мендкович. Кто «изнасиловал Германию»? (часть 1). Актуальная история | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = 19 tháng 2 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref><ref>http://gpw.tellur.ru/page.html?r=books&s=beevor</ref><ref>{{Chú thích web | url = http://svpressa.ru/war/article/8271/ | tiêu đề = Секс-Освобождение: эротические мифы Второй мировой | tác giả 1 = svpressa.ru | ngày = | ngày truy cập = 19 tháng 2 năm 2015 | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>
Hàng 261 ⟶ 267:
Một phụ nữ Berlin, Elizabeth Shmeer, theo nguồn của phía Nga cho biết<ref>{{Chú thích web | url = http://militera.lib.ru/research/dukov_ar/index.html | tiêu đề = За что сражались советские люди: «Русский НЕ должен умереть» | tác giả 1 = | ngày = | ngày truy cập = | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = }}</ref>:
:''Đức quốc xã nói rằng nếu người Nga đến đây, họ sẽ tàn phá và hãm hiếp khủng khiếp. Nhưng thực tế sau đó rất khác: dù là những người bại trận, quân đội Đức đã gây ra rất nhiều đau khổ cho nước Nga, nhưng những người chiến thắng đã cho chúng tôi thực phẩm còn nhiều hơn những gì chính quyền cũ phân phát. Đối với chúng tôi điều đó là khó hiểu. Một cách cư xử nhân đạo như vậy dường như chỉ người Nga làm được.''
== Chú thích ==
{{thể loại Commons|Army of the Soviet Union}}
{{Tham khảo|2}}
[[Thể loại:Hồng Quân| ]]
[[Thể loại:Quân đội Liên Xô|Hồng quân]]
|