Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Stefan Wyszyński”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 69:
 
==Tiểu sử==
Hồng y Stefan Wyszyński sinh ngày 3 tháng 8 năm 1901 tại Zuzela, Ba Lan. Sau quá trình tu học tại các chủng viện Công giáo, ngày 3 tháng 8 năm 1924, ông được truyền chức linh mục, là linh mục của Giáo phận Włocławek. Chủ sự nghi thức truyền chức cho ông là Giám mục [[Wojciech Stanisław Owczarek]], giám mục phụ tá Włocławek.<ref name=h>[http://www.catholic-hierarchy.org/bishop/bwysz.html Stefan Cardinal Wyszyński † Archbishop of Gniezno, Poland - Cardinal-Priest of Santa Maria in Trastevere, Archbishop of Warszawa {Warsaw}]</ref> Là một linh mục người Ba Lan trong thời kỳ Đức chiếm đóng quốc gia này, linh mục Wyszyński sống đời sống linh mục cách âm thầm. Ông cũng từng đảm nhận vai trò Linh mục Tuyên úy Quân đội trong cuộc nổi dậy Vácsava năm 1944 và cử hành các [[bí tích]] cuối đời cho những người sắp qua đời.<Ref name=va>[https://www.vaticannews.va/vi/vatican-city/news/2019-10/dhy-wyszynski-som-duoc-phong-chan-phuoc.html ĐHY Wyszyński sẽ sớm được phong chân phước]</ref>
 
Sau khoảng thời gian 22 năm làm linh mục, Stefan Wyszyński được bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa [[Giáo phận Lublin]] vào ngày 25 tháng 3 năm 1946. Lễ tấn phong cho tân giám mục được tổ chức sau đó vào ngày 12 tháng 5 cùng năm. Chủ phong nghi thức giám mục là Hồng y [[August Hlond]], S.D.B., Tổng giám mục Tổng giáo phận Gniezno và hai vị phụ phong là Giám mục [[Karol Mieczysław Radoński]], giám mục chính tòa Włocławek và giám mục phụ tá [[Giáo phận Częstochowa]] [[Stanislao Czajka]].<ref name=h/> Cùng năm này, ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan và đảm trách vai trò này cho đến năm 1953. Ông đảm nhận chức vị này lần thứ hai từ năm 1956 cho đến khi qua đời.<ref name=g/>
 
Hơn hai năm sau khi trở thành giám mục, ngày 12 tháng 11 năm 1948, Tòa Thánh thăng giám mục Stefan Wyszyński làm Tổng giám mục chính tòa [[Tổng giáo phận Gniezno]] và Tổng giám mục chính tòa [[Tổng giáo phận Warszawa]]. Năm năm sau đó (ngày 12 tháng 1 năm 1953)<Ref name=g/>, ông được thăng tước Hồng y Nhà thờ Santa Maria in Trastevere nhưng không thể nhận sứ vụ chính thức cho đến ngày 12 tháng 1 năm 1957 vì đang thụ án tại nhà tù chế độ Cộng sản Ba Lan. Các giáo sĩ Công giáo gần như bị bắt giữ đồng loạt vào năm 1953 tại các nước như Ba Lan, Croatia, Hungary và Tiệp Khắc. Bản thân Wyszyński cũng bị bắt vào năm này.<ref name=v/>
 
Là một trong những chức sắc tôn giáo có tầm ảnh hưởng ở Ba Lan, ông cùng giám mục [[Karol Wojtyla]] (sau là [[Giáo hoàng Gioan Phaolô II]]) cùng nhau thực hiện các hành động nhằm chống lại chủ nghĩa cộng sản Ba Lan.<Ref name=va/>
 
Hồng y Wyszynski từng đảm nhận vai trò Hồng y Giáo chủ Ba Lan và là một trong những người ủng hộ Giám mục trẻ tuổi [[Karol Wojtyla]], sau trở thành Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II]]. Khi công bố tân giám mục Wojtyla, Hồng y Wyszyński đã tuyên bố ''[[Habemus papam]]'' (“Chúng ta đã có Giáo hoàng”). Lời tuyên bố này gây ngỡ ngàng vì câu nói trên chỉ để công bố tân giáo hoàng sau một [[mật nghị hồng y]].<ref name=v/>
 
Hồng y Wyszyński cử hành nghi thức thánh hiến Giáo hoàng Gioan Phaolô II cho bà [[Maria]] khi giáo hoàng đang ở ranh giới sự sống và cái chết trong sự việc ám sát tháng 5 năm 1981.<Ref name=va/>
Ông qua đời ngày 28 tháng 5 năm 1981, thọ 80 tuổi.<ref name=h/>
 
ÔngHồng y Wyszyński qua đời ngày 28 tháng 5 năm 1981, thọ 80 tuổi.<ref name=h/>
 
==Tham khảo==