Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đa Minh Lê Hữu Cung”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 84:
 
==Thời kì giám mục==
Ngày 28 tháng 4 năm 1975, linh mục Đa Minh Lê Hữu Cung được [[Tòa Thánh]] bổ nhiệm làm [[Giám mục]] chính tòa của [[Giáo phận Bùi Chu]]. Lễ tấn phong giám mục của ông được tổ chức ngày [[29 tháng 6]] năm [[1975]].<ref name=ts1/> Tin tức từ Kỷ yếu Giáo phận ghi nhận ngày 8 tháng 5 năm 1975.<ref name=ts2 /> Lễ tấn phong giám mục cử hành tại [[Nhà thờ Lớn Hà Nội]], với phần nghi thức chính yếu cử hành bởi Chủ phong là Hồng y [[Giuse Maria Trịnh Như Khuê]], các Giám mục [[Phêrô Maria Nguyễn Huy Quang]] ([[Giáo phận Hưng Hóa]]) và Tổng giám mục phó [[Giuse Maria Trịnh Văn Căn]] (Giáo phận Hà Nội) phụ phong.<Ref name=tt>{{Chú thích web|url=http://www.catholic-hierarchy.org/bishop/blhc.html|tiêu đề=Bishop Dominique Marie Lê-Huu-Cung † Bishop of Bùi Chu, Viet Nam|ngày truy cập=Ngày 1 tháng 4 năm 2020|ngày lưu trữ=Ngày 1 tháng 4 năm 2020|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20200331211805/http://www.catholic-hierarchy.org/bishop/blhc.html}}</ref> Kỷ yếu giáo phận cho rằng phụ phong chỉ có Tổng giám mục phó Trịnh Văn Căn.<ref name=ts2/> Giáo phận Bùi Chu được trao cho tân giám mục có 320.000 giáo dân, 30 linh mục.<Ref name=ts2/>
 
Sau khi chính thức quản lý giáo phận, Giám mục Lê Hữu Cung tiến hành phân bổ các linh mục, chọn các linh mục có năng lực vào ban điều hành giáo phận, động viên các linh mục trẻ năng thi hành tác vụ linh mục. Trong thời kỳ này, các linh mục thường đảm nhận nhiều giáo xứ với số giáo dân từ một đến hai vạn người. Giám mục Lê Hữu Cung, tương tự các linh mục, để cử hành thánh lễ, nhiều lúc phải dùng các phương tiện như xe đạp, đi thuyền hoặc đi bộ.<Ref name=ts2/> Dù trong thời kỳ khó khăn và cấm cách, Giám mục Lê Hữu Cung vẫn đào tạo chủng sinh cách âm thầm và truyền chức 11 tân linh mục vào ngày 6 tháng 6 năm 1976. Ông cũng có hai linh mục làm nghĩa tử, gồm linh mục Giuse Nguyễn Đức Dung và Đa Minh Trần Ngọc Tuất.<Ref name=gp1/>