Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Đỗ Khuyển”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 1:
'''Đỗ Khuyển''' ([[chữ Hán]]: 杜犬; [[1400]][[1459]]) hay '''Lê Khuyển''' ([[chữ Hán]]: 黎犬), '''Lê Đại''' ([[chữ Hán]]: 黎大), '''Đỗ Đại''' ([[chữ Hán]]: 杜大), là tướng lĩnh, khai quốc công thần [[nhà Hậu Lê]] trong [[lịch sử Việt Nam]].
 
== Thân thế ==
Đỗ Khuyển quê ở làng Đa Mỹ, huyện [[Lôi Dương|Cổ Lôi]], trấn [[Thanh Hóa|Thanh Hoa]] (nay là làng Thịnh Mỹ, xã [[Thọ Diên]], huyện [[Thọ Xuân]], tỉnh [[Thanh Hóa]]).<ref>{{chú thích web|url=http://www.ditichlamkinh.vn/m/vi/bon-vi-khai-quoc-cong-than-thoi-le-tren-dat-tu-tru-3A3B26791AFE5FA894233E43754F1DD9.html|tiêu đề=Bốn bốn vị khai quốc công thần thời Lê trên đất Tứ Trụ|website=Khu di tích Lam Kinh|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20210608165151/http://www.ditichlamkinh.vn/m/vi/bon-vi-khai-quoc-cong-than-thoi-le-tren-dat-tu-tru-3A3B26791AFE5FA894233E43754F1DD9.html|ngày lưu trữ=2021-06-08|url hỏng=no|ngày=2017|nhà xuất bản=|ngày truy cập=2021-06-08|ngôn ngữ=Tiếng Việt}}</ref> Ông nội là [[Đỗ Lương]] lấy vợ họ Lê. Cha ông là [[Đỗ Lỗi]] làm tướng cho nhà Hồ, cũng lấy vợ họ Lê. Năm 1407, quân Minh xâm lược nước Đại Ngu. Đỗ Lỗi tử trận ở cửa biển Giao Thủy. Về sau, khi Đỗ Khuyển hiển quý, cha và ông của ông đều được truy tặng Huyện hầu, mẹ và bà được truy tặng Quận phu nhân.<ref name="hannom">[[Phan Đại Doãn]], ''[http://www.hannom.org.vn/web/tchn/data/0504v.htm Văn bia thần đạo Đỗ Khuyển - Khai quốc công thần thời Lê sơ]'', đăng trên ''[[Tạp chí Hán Nôm]]'' (số 4, 2005). Trang 70–78.</ref>
 
Đỗ Khuyển sinh năm 1400 thời vua [[Trần Thiếu Đế]], mồ côi cha từ nhỏ. Về sau, ông đến nương nhờ hào trưởng [[Lam Kinh|ấp Lam]] là [[Lê Lợi]]. Văn bia ''Khai quốc công thần Thái sư Định quốc công Đỗ Đại bi sự tích'' chép tên ông là Đại (大), nhưng các nhà nghiên cứu đều cho rằng đó là do con cháu thấy chữ "khuyển" (犬; [[con chó]]) có nghĩa xấu nên sửa lại.<ref name="hannom"/>
 
== Tham gia khởi nghĩa ==
Năm [[1418]], Lê Lợi phát động khởi nghĩa chống sự chiếm đóng của [[nhà Minh]]. Quân Minh đánh chiếm [[Lam Kinh|ấp Lam]], Đỗ Khuyển bị bắt về thành [[Đông Quan]]. Một tháng sau, ông nguyên vẹn trở về với Lê Lợi. Lê Lợi vui mừng, hỏi tình hình. Đỗ Khuyển đáp: ''Đông Quan giữa ban ngày có cảnh tượng truy bắt, cướp bóc.'' Lê Lợi mừng nói: ''Đó là triệu chứng sắp loạn.''<ref name="hannom"/>
 
Lê Lợi từ đó biết được Đỗ Khuyển là người trung thành, thường để hầu cận bên người. Sau lại cho Đỗ Khuyển quản các quân [[Lạng Giang]], [[Lỗi Giang]]. Đầu năm 1419, Đỗ Khuyển giữ chức [[Cận thị (chức quan)|Cận thị]] thự ngũ cục, [[Chi hậu]], giữ Chính đường, tiếp tục ở bên cạnh Lê Lợi.<ref name="hannom"/>
 
Tháng Giêng năm [[1426]], nghĩa quân do Đại tư đồ [[Trần Nguyên Hãn]] chỉ huy đánh chiếm phủ [[Nghệ An]]. Đỗ Khuyển cùng [[Lê Thiệt]] dẫn một vệ quân phục kích quân Minh ở cầu, chém chết chỉ huy [[Vi Thượng]]. Hai tướng sau đó lại đánh giết quân của thổ quan [[Nguyễn Vinh]] đang cướp bóc ở [[Cửa Hội|cửa biển Đan Thai]].<ref name="hannom"/>
 
Tháng 8 (ÂL) cùng năm, Lê Lợi nhân thấy quân Minh ở xứ Đông Đô suy yếu, phái [[Phạm Văn Xảo]], [[Lý Triện]], [[Trịnh Khả]], [[Lê Như Huân]], [[Đỗ Bí]] cầm 3.000 quân đi tuần ở xứ [[Thiên Quan (phủ)|Thiên Quan]], [[Quảng Oai]], [[Quốc Oai]], [[Gia Hưng (phủ)|Gia Hưng]], [[Quy Hóa (phủ)|Quy Hóa]], [[Đà Giang (đạo)|Đà Giang]], [[Tam Đái]], [[Tuyên Quang]] để chặn đường viện quân Minh từ [[Vân Nam]]; phái [[Bùi Bị]], Đỗ Khuyển đem 2.000 quân đi tuần xứ [[Khoái Châu]], [[Bắc Giang]], [[Lạng Giang]] để chặn viện quân từ [[Lưỡng Quảng]]; phái [[Đinh Lễ]], [[Nguyễn Xí]] cầm quân tinh nhuệ đi theo sau. Đỗ Khuyển lúc này giữ chức [[Thái giám]], có nhiệm vụ [[giám quân]].<ref name="ĐVSKTT 15">[[Ngô Sĩ Liên]], ''[[Đại Việt sử ký toàn thư]]'', Bản kỷ, quyển 10, ''[[:wikisource:zh:大越史記全書/本紀卷之十|Lê hoàng triều kỷ]]''</ref>