Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Mạc Thiên Tứ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: {{reflist}} → {{Tham khảo}} |
|||
Dòng 22:
==Lưu vong và mất tại Xiêm La==
Vào khoảng năm [[1776]], khi quân [[Tây Sơn]] đánh vào [[Gia Định]], truy kích tàn quân [[chúa Nguyễn]], Mạc Thiên Tích cùng Tôn Thất Xuân chạy sang Xiêm. Nhưng [[tháng 4]] năm [[1780]], vua Xiêm là [[Taksin]] (Trịnh Quốc Anh) nghi ngờ ông làm gián điệp cho [[Gia Định]], bắt giết các con lớn của ông là Mạc Tử Hoàng, [[Mạc Tử Dung]] cùng các phó tướng Tôn Thất Xuân, Tham, Tịnh và 50 người tùy tùng, chỉ để lại con nhỏ là Mạc Tử Sanh và một cháu nhỏ bắt phải đi đày.<ref>Tạ Chí Đại Trường, ''Lịch sử nội chiến Việt Nam'', trang 120</ref>. Quá phẫn uất, ông tự tử<ref>
==Công lao==
Dòng 32:
Năm [[1756]], quốc vương [[Chân Lạp]] là Nặc Nguyên uy hiếp người Côn Man (người [[Chiêm Thành]] di cư sang Chân Lạp), nhưng bị tướng [[Nguyễn Cư Trinh]] đánh bại, phải chạy sang Hà Tiên nương nhờ họ Mạc. Mạc Thiên Tứ dâng thư lên chúa Nguyễn, nói Nặc Nguyên có ý muốn dâng đất Tầm Bôn, Lôi Lạp để chuộc tội. Chúa Nguyễn đồng ý và cho người hộ tống Nặc Nguyên về nước. Hai vùng đất đó trở thành hai phủ [[Gò Công]] và [[Tân An]].
Năm [[1757]], Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm giám quốc, từ lâu có ý muốn làm vua Chân Lạp, liền dâng hai xứ Preah Trapeang và Basac (tức vùng [[Trà Vinh]], [[Ba Thắc]]). Nhưng lúc đó, Nặc Nhuận bị con rể giết chết cướp ngôi. Con trai là Nặc Tôn chạy sang cầu cứu Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đứng ra sắp xếp, xin chúa Nguyễn cho Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn thuận và sai Mạc Thiên Tứ cùng tướng sĩ năm dinh hộ tống đưa Nặc Tôn về nước. Để tạ ơn, Nặc Tôn dâng Tầm Phong Long (vùng đất giữa [[Sông Tiền]] và [[Sông Hậu]]) cho chúa Nguyễn. Riêng họ Mạc, Nặc Tôn dâng năm phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Lình Quỳnh để đền ơn giúp đỡ. Mạc Thiên Tứ đem hết đất ấy dâng cho Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cho sảt nhập vào Hà Tiên trấn, giao cho họ Mạc cai quản. Mạc Thiên Tứ chia đất đó thành hai đạo: xứ [[Rạch Giá]] là Kiên Giang đạo, xứ [[Cà Mau]] là Long Xuyên đạo, đặt quan cai trị, chiêu lập dân ấp.<ref>
Ngoài ra, từ [[1775]] đến [[1777]], Mạc Thiên Tứ đã cùng các con là [[Mạc Tử Dung]], Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Thảng (hoặc Thượng) phò tá chúa [[Nguyễn Phúc Thuần]], đóng giữ ở Trấn Giang (nay là [[Cần Thơ]]) và dốc sức phát triển vùng đất này.
Dòng 40:
:''[[Bính Thìn]] năm thứ 11 ([[1736]]). Mùa xuân chúa cho Thiên Tứ làm Hà Tiên trấn Đô đốc, ban cho ba thuyền Long Bài, được miễn thuế, lại sai mở lò đúc tiền để việc mua bán được thông thương. Thiên Tứ mở rộng phố chợ, thương nhân và lữ khách các nước tụ họp rất đông.''
Dẫn lại đoạn sử trên, tác giả Nghiên cứu Hà Tiên khen: ''Ngay khi lãnh nhiệm vụ, Thiên Tứ đã vực dậy nền kinh tế, tạo dựng Hà Tiên thành một cảng khẩu trù phú, sung túc. Điều đó cho thấy năng lực của người lãnh đạo Hà Tiên (ý nói Thiên Tứ) thời đó quả không nhỏ.''<ref>
===Đóng góp cho văn học===
Cùng với Trần Trí Khải tự Hoài Thủy, một danh sĩ người Việt Đông ([[Trung Quốc]]), Mạc Thiên Tứ đã tổ chức thành công [[Tao đàn Chiêu Anh Các]] vào năm [[1736]] ở [[Hà Tiên]]. Kể từ đó cho tới năm [[1771]], tao đàn trên đã đóng góp cho nền văn học Việt nhiều tác phẩm có giá trị, như: '''Hà Tiên thập cảnh, Thụ Đức Hiên tứ cảnh, Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh, Minh bột di ngư...''<ref>
==Về năm sinh...==
Mạc Thiên Tứ sinh năm [[Mậu Tuất]] ([[1718]]). Điều này được biên chép trong các sách sau:
*Sách ''Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả'' của Vũ Thế Dinh <ref>Vũ Thế Dinh (?-1821) hiệu Thận Vi Thị, làm chức Hà Tiên trấn Tùng trấn cai đội, tước Dinh Đức hầu. Ông mồ côi từ năm 9 tuổi, được Mạc Thiên Tứ nuôi dạy cho đến khi nên người…</ref>, soạn vào năm [[1818]], ghi:
"Ngày 27 [[tháng 5]] năm [[Ất Mão]] (1735), ông Mạc Cửu bệnh mất, là lúc ông Thiên Tứ mười tám tuổi...”<ref>
*''Sách [[Gia Định thành thông chí]]'' do [[Trịnh Hoài Đức]] soạn khoảng [[1820]], chép:
Dòng 59:
*''Một người Trung Quốc ở vùng Nam Hải, người sáng lập xứ Hà Tiên'' của GS Émile. Gaspardone, Quản đốc Thư viện [[Trường Viễn Đông Bác Cổ]] ở [[Hà Nội]] (nay là Thư viện của ''Viện Hán Nôm Việt Nam''). Trong sách có câu: "Sinh năm [[1718]], Mạc Thiên Tứ chết năm [[1780]], thì ông chỉ có 62 tuổi" (xuất bản 1952, tr. 354, phụ chú 5)
Theo nghiên cứu của ông Trương Minh Đạt, sở dĩ có chuyện Mạc Thiên Tứ sinh năm [[Bính Tuất]] ([[1706]]), là vì [[Đông Hồ]] không tin năm ''[[Canh Tuất]]'' được chép trong ''Mạc thị gia phả'', nhưng cuối cùng thi sĩ đã suy tính sai.<ref>
==Chú thích==
{{
==Xem thêm==
Dòng 69:
*[[Tao đàn Chiêu Anh Các]]
*[[Đền thờ họ Mạc]]
[[Thể loại:Người Kiên Giang|M]]
[[Thể loại:Tướng chúa Nguyễn|M]]
|