Chi Chích bông (danh pháp khoa học: Orthotomus) là một chi chứa một số loài chim nhỏ. Chi này theo truyền thống thường được đặt trong họ Lâm oanh (Sylviidae)[1]. Nghiên cứu gần đây cho thấy có lẽ đúng nhất nên đặt nó trong họ Chiền chiện (Cisticolidae) và chúng được xếp đặt như vậy trong Del Hoyo và ctv. (2006). Một loài chích bông đầu vàng (và vì thế cả loài có quan hệ chị em với nó là chích bông đầu hung) trên thực tế có quan hệ gần gũi hơn với chi Cettia (các loài chích bụi điển hình).[2]

Chi Chích bông
Chích bông đầu dài (Orthotomus sutorius)
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Aves
Bộ (ordo)Passeriformes
Họ (familia)Cisticolidae
Phân họ (subfamilia)Priniinae
Chi (genus)Orthotomus
Horsfield, 1821
Các loài
Xem văn bản.

Các loài chích bông sinh sống trong khu vực nhiệt đới Cựu thế giới, chủ yếu tại châu Á.

Các loài chim chích này thông thường có màu sáng, với phần trên có màu xanh lục hay xám và phần dưới màu trắng, vàng hay xám. Phần đầu của chúng thông thường có màu hạt dẻ.

Chích bông có các cánh ngắn và thuôn tròn, đuôi ngắn, chân khỏe, mỏ dài và cong. Đuôi thường dựng đứng, như ở hồng tước. Nói chung người ta hay bắt gặp chúng ở các đồng rừng thưa, các trảng cây bụi và các khu vườn.

Chích bông có kiểu làm tổ đặc biệt. Các phần rìa của các lá to bị chúng mổ thủng và khâu lại với nhau bằng các sợi tơ thực vật hay tơ nhện để làm nôi và trong đó chúng làm tổ từ cỏ.

Các loài

sửa

Hai loài mà người ta phát hiện ra là chỉ có quan hệ họ hàng xa với chi Orthotomus và tốt hơn thì có lẽ nên coi chúng như một chi riêng tách biệt là Artisornis[4] thuộc phân họ Eremomelinae cùng họ:

Ngoài ra còn hai loài có lẽ nên được chuyển sang họ Cettiidae:

Chú thích

sửa
  1. ^ Các tài liệu về điểu học tại Việt Nam gọi họ này là họ Chích hay họ Chim chích, tuy nhiên phân họ chứa các loài chích có ở Việt Nam là Acrocephalinae của họ Sylviidae nghĩa rộng (sensu lato), hiện nay đã tách riêng ra thành họ Acrocephalidae, còn chi Sylvia không có ở Việt Nam nhưng có tên gọi Hán-Việt là lâm oanh cho nên họ Sylviidae nghĩa hẹp (sensu stricto) này nên được gọi là họ Lâm oanh.
  2. ^ Per Alström; Ericson P.G.P.; Olsson U.; Sundberg P. (2006). “Phylogeny and classification of the avian superfamily Sylvioidea”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 38 (2): 381–397. doi:10.1016/j.ympev.2005.05.015.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  3. ^ Sheldon F. H., Oliveros C. H., Taylor S. T., McKay B., Lim H. C., Rahman M. A., Mays H. & Moyle R. G. (2012) Molecular phylogeny and insular biogeography of the lowland tailorbirds of Southeast Asia (Cisticolidae: Orthotomus). Mol. Phylogen. Evol. 65(1): 54–63, doi:10.1016/j.ympev.2012.05.023.
  4. ^ B Nguembock; Fjeldsa J.; Tillier A.; Pasquet E. (2007). “A phylogeny for the Cisticolidae (Aves: Passeriformes) based on nuclear and mitochondrial DNA sequence data, and a re-interpretation of a unique nest-building specialization”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 42 (1): 272–286. Đã bỏ qua văn bản “doi:10.1016/j.ympev.2006.07.008” (trợ giúp)Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)

Tham khảo

sửa
  • Baker: Warblers of Europe, Asia and North Africa, ISBN 0-7136-3971-7
  • Ryan Peter (2006). Họ Cisticolidae (Cisticolas và đồng minh). Trang 378-492 trong del Hoyo J., Elliott A. & Christie D.A. (2006) Handbook of the Birds of the World. Quyển 11. Old World Flycatchers to Old World Warblers Lynx Edicions, Barcelona ISBN 978-84-96553-06-4