Hội chứng hô hấp cấp tính nặng
Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (tiếng Anh: Severe acute respiratory syndrome; viết tắt: SARS) là một chứng bệnh hô hấp ở con người gây ra bởi một loại virus mang tên virus SARS (SARS-CoV), một chủng của coronavirus.[10] Trong thời gian từ tháng 11 năm 2002 đến tháng 7 năm 2003, dịch SARS bùng phát ở Hồng Kông, lan tỏa toàn cầu và gần như trở thành một đại dịch, với 8422 trường hợp và 774 trường hợp tử vong trên toàn thế giới[11] (10,9% tử vong) theo Tổ chức Y tế Thế giới.[12] Chỉ trong vòng vài tuần lễ, SARS lan từ Hồng Kông sang lây nhiễm nhiều người khác tại 37 quốc gia trên thế giới (trong đó có Việt Nam) vào đầu năm 2003.
Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS) | |
---|---|
SARS coronavirus (SARS-CoV) là nguyên nhân gây hội chứng SARS | |
Chuyên khoa | Bệnh nhiễm trùng |
ICD-10 | U04 |
ICD-9-CM | 079.82 |
DiseasesDB | 32835 |
MedlinePlus | 007192 |
eMedicine | med/3662 |
Patient UK | Hội chứng hô hấp cấp tính nặng |
MeSH | D045169 |
MERS-CoV | SARS-CoV | SARS-CoV-2 | |
---|---|---|---|
Bệnh | MERS | SARS | COVID-19 |
Dịch | 2012, 2015, 2018 |
2002–2004 | Đại dịch 2019–nay |
Dịch tễ học | |||
Ngày phát hiện ca đầu tiên |
Tháng 6 2012 |
Tháng 11 2002 |
Tháng 12 2019[1] |
Địa điểm phát hiện ca đầu tiên |
Jeddah, Ả Rập Xê Út |
Thuận Đức, Trung Quốc |
Vũ Hán, Trung Quốc |
Độ tuổi trung bình | 56 | 44[2][a] | 56[3] |
Tỷ lệ giới tính (nam:nữ) |
3,3:1 | 0,8:1[4] | 1.6:1[3] |
Số ca xác nhận | 2494 | 8096[5] | 676.609.955[6][b] |
Số ca tử vong | 858 | 774[5] | 6.881.955[6][b] |
Tỷ lệ tử vong | 37% | 9,2% | 1,0%[6] |
Triệu chứng | |||
Sốt | 98% | 99–100% | 87,9%[7] |
Ho khan | 47% | 29–75% | 67,7%[7] |
Khó thở | 72% | 40–42% | 18,6%[7] |
Tiêu chảy | 26% | 20–25% | 3,7%[7] |
Đau họng | 21% | 13–25% | 13,9%[7] |
Buộc thở máy | 24,5%[8] | 14–20% | 4,1%[9] |
Ghi chú |
Trường hợp tử vong của SARS tùy thuộc vào giới tuổi bệnh nhân. Đối với người dưới 25 tuổi, tỷ lệ tử vong ít hơn 1%; dưới 25-44 tuổi thì tỷ lệ tăng lên thành 6%; dưới 45-64 là 15%; và hơn 65 tuổi là 50% hoặc hơn nữa.
Không như bệnh đậu mùa đã bị dứt hẳn, SARS vẫn tồn tại, tiềm ẩn trong khối trữ thiên nhiên (quần thể động vật) và có khả năng tái phát.
Không có trường hợp SARS-CoV đầu tiên nào được báo cáo trên toàn thế giới kể từ năm 2004. Tuy nhiên, virus SARS-CoV-2 có liên quan là nguyên nhân gây ra đại dịch COVID-19 đang diễn ra trên toàn cầu.
Nguồn phát bệnh
sửaTheo một số nhà khoa học, vi rút gây bệnh SARS bắt nguồn từ loài cầy hương bán ở các chợ động vật hoang dã ở Trung Quốc.[13]
Dấu hiệu và triệu chứng
sửaCác triệu chứng ban đầu giống như bệnh cúm và có thể bao gồm: sốt, đau cơ, triệu chứng hôn mê, ho, đau họng và một số triệu chứng không đặc hiệu. Các triệu chứng chỉ chung cho tất cả các bệnh nhân xuất hiện sốt trên 38 °C (100,4 °F), khó thở có thể xảy ra sau đó. Bệnh nhân có các triệu chứng như với cảm lạnh trong giai đoạn đầu tiên, nhưng sau đó giống như cúm. Bệnh nhân có thể bị sốt nóng và sốt lạnh xen kẽ nhau.
Chẩn đoán
sửaDấu hiệu:
- Bất kỳ các triệu chứng, bao gồm sốt 38 °C hoặc cao hơn;
- Hắt hơi, ho, sau đó chạm vào các đồ vật (sau khi phát bệnh 5 ngày).
- Đi du lịch đến bất kỳ khu vực được xác định bởi WHO là khu vực có SARS (khu vực bị ảnh hưởng như của ngày 10 tháng 5 năm 2003, các khu vực của Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore và tỉnh Ontario, Canada).
Một kết quả xét nghiệm âm tính không có nghĩa là bệnh nhân không có SARS.
Tiên lượng
sửaMột số báo cáo kết quả từ Trung Quốc trên một số bệnh nhân SARS phục hồi cho thấy thời gian nặng nề và di chứng lâu có tồn tại. Các bệnh tiêu biểu nhất bao gồm chứng xơ hoá phổi, loãng xương, và xương đùi hoại tử, mà đã dẫn đến mất hoàn toàn khả năng lao động hoặc ngay cả khả năng tự chăm sóc các trường hợp này. Kết quả là, một số bệnh nhân sau SARS bị rối loạn tâm thần chủ yếu.[14]
Dịch tễ học
sửaSARS vẫn được coi là một căn bệnh tương đối hiếm, với 8.422 trường hợp năm 2003.[15]
Nạn nhân
sửaDịch bệnh SARS từ năm 2002 đến năm 2003 đã khiến 650 người Trung Quốc bị chết ở đại lục và Hồng Kông.[13]
Tham khảo
sửa- ^ Wang C, Horby PW, Hayden FG, Gao GF (tháng 2 năm 2020). “A novel coronavirus outbreak of global health concern”. Lancet. 395 (10223): 470–473. doi:10.1016/S0140-6736(20)30185-9. PMID 31986257.
- ^ Lau EH, Hsiung CA, Cowling BJ, Chen CH, Ho LM, Tsang T, và đồng nghiệp (tháng 3 năm 2010). “A comparative epidemiologic analysis of SARS in Hong Kong, Beijing and Taiwan”. BMC Infectious Diseases. 10: 50. doi:10.1186/1471-2334-10-50. PMC 2846944. PMID 20205928.
- ^ a b “Old age, sepsis tied to poor COVID-19 outcomes, death”. CIDRAP, University of Minnesota. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2020.
- ^ Karlberg J, Chong DS, Lai WY (tháng 2 năm 2004). “Do men have a higher case fatality rate of severe acute respiratory syndrome than women do?”. American Journal of Epidemiology. 159 (3): 229–31. doi:10.1093/aje/kwh056. PMID 14742282.
- ^ a b “Summary of probable SARS cases with onset of illness from 1 November 2002 to 31 July 2003”. World Health Organization. tháng 4 năm 2004.
- ^ a b c “COVID-19 Dashboard by the Center for Systems Science and Engineering (CSSE) at Johns Hopkins University (JHU)”. ArcGIS. Đại học Johns Hopkins. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2021.
- ^ a b c d e “Report of the WHO-China Joint Mission on Coronavirus Disease 2019 (COVID-19)” (PDF). World Health Organization. tháng 2 năm 2020.
- ^ Oh MD, Park WB, Park SW, Choe PG, Bang JH, Song KH, và đồng nghiệp (tháng 3 năm 2018). “Middle East respiratory syndrome: what we learned from the 2015 outbreak in the Republic of Korea”. The Korean Journal of Internal Medicine. 33 (2): 233–246. doi:10.3904/kjim.2018.031. PMC 5840604. PMID 29506344.
- ^ Ñamendys-Silva SA (tháng 3 năm 2020). “Respiratory support for patients with COVID-19 infection”. The Lancet. Respiratory Medicine. doi:10.1016/S2213-2600(20)30110-7. PMID 32145829.
- ^ Coronaviruses: Molecular and Cellular Biology
- ^ [1]
- ^ [2]
- ^ a b Phúc Duy. “Khủng hoảng tại ổ dịch viêm phổi Vũ Hán”. Thanh niên. 2020-01-23. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2020.
- ^ 沉默的SARS后遗症患者 | 南方周末
- ^ [3]