Helicoverpa armigera,[1] là một loài sâu bướm trong chi Helicoverpa, ở Vương quốc Anh, loài này là loài di cư.[2] Ấu trùng loài bướm ăn nhiều loài cây, bao gồm cây trồng quan trọng như bông vải. Loài này phân bố rộng rãi ở Trung và Nam Âu, châu Á ôn hòa, châu Đại Dương. Đây là loài di cư có thể đến tận Scandinavia và các lãnh thổ phía bắc khác.[3]

Helicoverpa armigera
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Arthropoda
Lớp (class)Insecta
Bộ (ordo)Lepidoptera
Phân bộ (subordo)Ditrysia
Liên họ (superfamilia)Noctuoidea
Họ (familia)Noctuidae
Chi (genus)Helicoverpa
Loài (species)H. armigera
Danh pháp hai phần
Helicoverpa armigera
(Hübner, 1808)
Danh pháp đồng nghĩa
Helicoverpa armigera

Phân bố sửa

Loài này bao gồm hai phân loài: Helicoverpa armigera armigera bản địa phổ biến ở trung và nam châu Âu, ôn đới châu Á và châu Phi; Helicoverpa armigera conferta bản địa Australia, và châu Đại Dương.[4] Phân loài trước gần đây cũng đã được xác nhận là đã xâm lược thành công Brazil[5] và kể từ đó đã lan rộng trên phần lớn Nam Mỹ và đến vùng Caribê. Nó là một loài di cư, có thể đến Scandinavia và các vùng lãnh thổ phía bắc khác.[3]

 
Trứng
 
Sâu bướm

Hình thái học sửa

Bướm rất đa dạng cả về kích thước và màu sắc. Chiều dài cơ thể khác nhau giữa 12 và 20 milimét (1234 in) với sải cảnh 30–40 milimét (1+141+12 in). Các cánh trước có màu hơi vàng đến cam ở con cái và màu xám xanh ở con đực, với dải ngang sẫm hơn một chút ở phần ba phía xa.[6] Các đường cắt ngang bên ngoài và đường cận biên và điểm hình thận được khuếch tán. Các cánh sau có màu vàng nhạt với một dải màu nâu hẹp ở mép ngoài và một đốm tròn sẫm ở giữa.[3]

Vòng đời sửa

Sâu đục quả bông cái có thể đẻ vài trăm trứng, phân bố trên nhiều bộ phận khác nhau của cây. Trong điều kiện thuận lợi, trứng có thể nở thành ấu trùng trong vòng ba ngày và toàn bộ vòng đời có thể hoàn thành chỉ trong hơn một tháng.[6]

Trứng có hình cầu đường kính 0,4 đến 0,6 mm, và có bề mặt có gân. Chúng có màu trắng, sau chuyển sang màu xanh lục.[3]

Ấu trùng mất từ ​​13 đến 22 ngày để phát triển, đạt chiều dài tới 40 milimét (1+12 in) trong instar thứ sáu. Màu sắc của chúng có thể thay đổi, nhưng chủ yếu là màu xanh lục và vàng đến nâu đỏ. Đầu màu vàng với một số đốm. Ba sọc sẫm kéo dài dọc theo mặt lưng và một sọc nhạt màu vàng nằm dưới các gai ở mặt bên. Màu bụng ấu trùng nhợt nhạt.[3] Chúng khá hung dữ, đôi khi ăn thịt và thậm chí có thể ăn thịt đồng loại là lẫn nhau. Nếu bị quấy rầy, chúng sẽ rơi khỏi cây và cuộn tròn trên mặt đất.

Nhộng phát triển bên trong một Kén[6] hơn 10 đến 15 ngày trong đất ở độ sâu 4–10 xentimét (1+12–4 in), hoặc trong quả bông hoặc tai ngô.[3]

Hình ảnh sửa

Chú thích sửa

  1. ^ a b Pest Risk Analysis.
  2. ^ Waring, Paul, Martin Townsend and Richard Lewington (2003) Field Guide to the Moths of Great Britain and Ireland. British Wildlife Publishing, pg. 374.
  3. ^ a b c d e f “AgroAtlas - Pests - Helicoverpa armigera Hbn. - Cotton Bollworm”. www.agroatlas.ru.
  4. ^ Jones, Christopher M.; Parry, Hazel; Tay, Wee Tek; Reynolds, Don R.; Chapman, Jason W. (7 tháng 1 năm 2019). “Movement Ecology of Pest Helicoverpa: Implications for Ongoing Spread”. Annual Review of Entomology. Annual Reviews. 64 (1): 277–295. doi:10.1146/annurev-ento-011118-111959. ISSN 0066-4170. PMID 30296859. S2CID 52944198.
  5. ^ Downes, Sharon; Anderson, Craig; Behere, Gajanan T.; Silvie, Pierre; Thomazoni, Danielle; Walsh, Thomas; Soria, Miguel F.; Tay, Wee Tek (18 tháng 11 năm 2013). “A Brave New World for an Old World Pest: Helicoverpa armigera (Lepidoptera: Noctuidae) in Brazil”. PLOS ONE. 8 (11): e80134. Bibcode:2013PLoSO...880134T. doi:10.1371/journal.pone.0080134. PMC 3832445. PMID 24260345.
  6. ^ a b c “Crop Compendium - Bayer - Crop Science”. www.cropscience.bayer.com.

Tham khảo sửa

Liên kết ngoài sửa

  Tư liệu liên quan tới Helicoverpa armigera tại Wikimedia Commons